Banner trang chủ
Thứ Tư, ngày 24/09/2025

Một số đề xuất hoàn thiện cơ chế huy động nguồn lực tài chính cho xây dựng, thực hiện phương án bảo vệ môi trường làng nghề

18/04/2025

    Theo thống kê của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, hiện cả nước có 5400 làng nghề, trong đó có khoảng 2.000 làng nghề truyền thống, mang trong mình những giá trị kinh tế, lịch sử, văn hóa lâu đời. Các làng nghề truyền thống có tính sáng tạo cao với các sản phẩm thủ công đa dạng, độc đáo, giàu bản sắc văn hóa, như đúc đồng Ngũ Xã, kim hoàn Định Công, mây tre đan Phú Vinh, chuồn chuồn tre Thạch Xá, nón Chuông, sơn mài Hạ Thái, quạt Chàng Sơn, rối nước Đào Thục, hoa Tây Tựu, thêu Quất Động, tò he Xuân La, khảm trai Chuôn Ngọ… đã nổi tiếng khắp cả nước. Nhiều sản phẩm được công nhận là thương hiệu quốc gia. Sản phẩm của các làng nghề truyền thống là sự kết hợp giữa văn hóa và trình độ kỹ thuật của người làm nghề, kết tinh giá trị thẩm mỹ, bàn tay và khối óc tài hoa của các nghệ nhân qua nhiều thế hệ; không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế cho người dân, mà còn phản ánh sinh động lối sống, phong tục, tập quán và khát vọng của người Việt Nam từ xưa đến nay. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho BVMT tại các làng nghề nói chung còn hạn chế. Các cơ chế huy động nguồn lực trong xã hội cho BVMT làng nghề đã có nhưng việc triển khai còn nhiều hạn chế nên nguồn lực huy động chưa đáp ứng được nhu cầu. Để tháo gỡ khó khăn và huy động hiệu quả hơn nữa các nguồn lực cho công tác BVMT tại các làng nghề, đặc biệt là công tác xây dựng, thực hiện phương án BVMT làng nghề, cần đẩy mạnh thực hiện xây dựng, hoàn thiện cơ chế huy động nguồn lực tài chính, như sau:

Một là, nguồn lực từ ngân sách

    Nguồn lực từ ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu như thuế, phí, lệ phí, thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước, các khoản đóng góp, viện trợ, và các khoản vay để bù đắp bội chi. Nhà nước sử dụng các nguồn lực này để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, bao gồm chi cho các sự nghiệp môi trường, các chương trình mục tiêu quốc gia và các mục đích khác. Xác định BVMT có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với hội nhập quốc tế. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng đến BVMT, điều đó được thể hiện tại các chính sách xuyên suốt, nhất quán của Đảng và pháp luật của Nhà nước, cụ thể ngay từ năm 2004, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngày 15/11/2004 về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với 3 mục tiêu cụ thể: (i) Ngăn ngừa, hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường do hoạt động của con người và tác động của tự nhiên gây ra. Sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học; (ii) Khắc phục ô nhiễm môi trường, trước hết ở những nơi đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, phục hồi các hệ sinh thái đã bị suy thoái, từng bước nâng cao chất lượng môi trường; (iii) Xây dựng nước ta trở thành một nước có môi trường tốt, có sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và BVMT; mọi người đều có ý thức BVMT, sống thân thiện với thiên nhiên. Để thực hiện được các mục tiêu cơ bản đó, một trong những giải pháp đề ra là: “Đối với NSNN cần có mục chi riêng cho hoạt động sự nghiệp môi trường và tăng chi để bảo đảm đến năm 2006 đạt mức chi không dưới 1% tổng chi NSNN và tăng dần tỷ lệ này theo tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế” (Mục III.5, Nghị quyết số 41-NQ/TW). Để cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 đã quy định chi cho sự nghiệp BVMT đều thuộc khoản chi thường xuyên ở cả ngân sách địa phương và trung ương. Đồng thời, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cũng quy định: “…Bố trí khoản chi riêng cho BVMT trong NSNN với tỷ lệ tăng dần theo khả năng của NSNN và yêu cầu nhiệm vụ BVMT; ưu tiên nguồn kinh phí cho các nhiệm vụ trọng điểm về BVMT”. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, nguồn ngân sách chi cho BVMT và vốn đầu tư theo các chương trình, dự án đầu tư liên quan đến BVMT chưa đáp ứng được so với yêu cầu thực tiễn, chưa đủ kinh phí để hỗ trợ các địa phương, nhất là đối với yêu cầu triển khai các dự án lớn về hạ tầng kỹ thuật, hoặc khu vực có ô nhiễm nghiêm trọng. Do vậy, đối với huy động nguồn lực tài chính cho xây dựng, thực hiện phương án bảo vệ môi trường làng nghề, để huy động nguồn lực từ ngân sách cần chú ý:

    Hoàn thiện cơ chế, chính sách trái phiếu xanh do Chính phủ, chính quyền địa phương phát hành theo quy định của pháp luật về phát hành trái phiếu để huy động nguồn vốn cho các hoạt động BVMT; ưu tiên nguồn lực đầu tư và khuyến khích chính quyền địa phương, các tổ chức, đơn vị và cá nhân đầu tư bảo tồn, phát triển và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tự nhiên, phát huy lợi thế tự nhiên thông qua các cơ chế trái phiếu xanh, mua sắm xanh, tín chỉ các-bon rừng, chi trả dịch vụ hệ sinh thái, cơ chế hoán đổi nợ cho đầu tư vào vốn tự nhiên và các công cụ kinh tế, tài chính khác theo quy định.

    Cùng với đó, cần xây dựng khung chính sách thuế, phí làm cơ sở để hoàn thiện chính sách BVMT theo hướng: mở rộng phạm vi đối tượng chịu thuế, phí BVMT để bao quát hết các hàng hoá nguy hại đối với môi trường; thu hẹp mức thuế suất tuyệt đối, mở rộng phạm vi áp dụng thuế suất tương đối và phương pháp thuế suất hỗn hợp nhằm khắc phục được hạn chế của mức thuế suất đối với thị trường, giá cả và lạm phát…, góp phần hạn chế gian lận thuế. Đồng thời, chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt, với các phương tiện giao thông có dung tích xi lanh lớn duy trì mức thuế suất cao đối để góp phần giảm ô nhiễm không khí và tăng thu ngân sách nhà nước, để kích thích sản xuất và tiêu dùng nhiên liệu sạch, hạn chế sản xuất và tiêu dùng nhiên liệu hóa thạch cần điều chỉnh theo hướng giảm mức thuế suất thấp hơn nữa đối với nhóm nhiên liệu sạch.

    Ngoài ra, cần tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách thu tiền sử dụng đất, bán, cho thuê tài sản nhà nước… sử dụng đầy đủ và có hiệu quả hơn các công cụ thị trường, tăng cường tính công khai, minh bạch trong định giá, đấu giá quyền sử dụng đất, bán, cho thuê, thuê mua nhà thuộc sở hữu nhà nước góp phần chống gian lận, tránh thất thoát, đảm bảo hiệu quả nguồn thu ngân sách nhà nước.

    Cơ chế phân cấp, phân chia nguồn thu giữa ngân sách Trung ương  và ngân sách địa phương: Đối với các khoản thu phần lớn dựa vào hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên (đất đai, quyền khai thác tài nguyên nước, chi trả dịch vụ môi trường rừng), việc quy định các khoản thu ngân sách địa phương được hưởng 100% áp dụng chung cho các địa phương trong khi có sự không đồng đều trong phân bổ tài nguyên dẫn đến những bất cập. Do đó, để khắc phục tình trạng này, với mục tiêu tạo sự tương thích, công bằng giữa các địa phương có thể căn cứ vào tiêu chí phân bổ tài nguyên để điều chỉnh chính sách theo hướng phân nhóm địa phương tương đồng, trên cơ sở đó, phân nhóm nguồn thu ngân sách địa phương. Ngoài ra, bổ sung cơ chế kiểm soát quyền lực trong thực hiện chính sách phân chia tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương hoặc giữa các cấp ngân sách địa phương đối với một số khoản thu để hạn chế tiêu cực trong quá trình thực hiện.

Các sản phẩm gốm, sứ của làng nghề Bát Tràng

 Hai là, nguồn lực tài chính từ cộng đồng

    Nhà nước ta đã đề ra chủ trương xã hội hóa công tác BVMT, huy động mọi nguồn lực từ các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, các tổ chức xã hội và cộng đồng tham gia hoạt động BVMT. Tuy nhiên, công tác này cũng còn nhiều điểm vướng mắc như chưa xây dựng được quy định pháp lý để khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia sâu rộng hơn trong lĩnh vực xử lý, phục hồi các điểm ô nhiễm môi trường; nhiều vấn đề môi trường vẫn còn bức xúc trong khi mọi nguồn lực xã hội chưa được tận dụng có hiệu quả. Điều đó đòi hỏi phải xây dựng và thực hiện các mô hình hợp tác công - tư, nhà nước và nhân dân cùng tham gia BVMT, nhất là trong việc khắc phục, cải tạo các điểm nóng về môi trường. Đặc biệt, cần thúc đẩy mạnh mẽ hơn các phong trào BVMT trong nhân dân, phát huy mạnh mẽ vai trò của các tổ chức chính trị, xã hội, trong việc giám sát và thực thi các quy định pháp luật về BVMT. Riêng đối với huy động nguồn lực tài chính cho xây dựng, thực hiện phương án bảo vệ môi trường làng nghề cần chú ý:

    Xây dựng, ban hành một số chính sách mới nhằm huy động nguồn lực tài chính từ cộng đồng cho công tác BVMT làng nghề trên địa bàn các tỉnh, thành phố trong cả nước, khuyến khích sự tham gia của cộng đồng, của người dân vào công tác thực hiện phương án BVMT làng nghề ở Việt Nam: khuyến khích và hỗ trợ kỹ thuật để người dân, cộng đồng triển khai và mở rộng quy mô các mô hình sản xuất tiết kiệm, an toàn, văn minh, mang đậm bản sắc dân tộc, hài hòa và thân thiện với thiên nhiên; phát triển mô hình đô thị sinh thái,… mô hình phân loại rác thải tại nguồn theo phương pháp giảm thiểu - tái chế - tái sử dụng (mô hình 3K), cải thiện hiệu suất sử dụng năng lượng; vận động và khuyến khích sử dụng NLTC của cộng đồng tham gia vào lĩnh vực quản lý rủi ro thiên tai, trồng rừng và quản lý rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, …

    Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác BVMT, tham gia thực hiện phương án BVMT làng nghề; đa dạng hóa các hình thức của hoạt động tuyên truyền tạo ra phong trào tự vận động phát triển trong cộng đồng dân cư nông thôn: thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc các biện pháp thi đua, khen thưởng… Phát huy hơn nữa vai trò của các tổ chức xã hội trong việc hướng dẫn, tư vấn về BVMT và phối hợp giải quyết hậu quả ô nhiễm môi trường; thành lập các quỹ bảo vệ môi trường từ đóng góp của người dân, hội viên và các nguồn hợp pháp khác; vận động hội viên, cộng đồng và người dân thực hiện tốt chính sách pháp luật về BVMT góp phần nâng cao nhận thức, lối sống thân thiện với môi trường. động viên, khích lệ hội viên, người dân địa phương tham gia xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, thu gom, xử lý chất thải, cải tạo và phục hồi môi trường; hướng dẫn hội viên, người dân áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến và sử dụng các sản phẩm thân thiện môi trường.

Ba là, nguồn lực từ các doanh nghiệp, tổ chức tài chính

    Hoàn thiện khung pháp lý khuyến khích, kích thích các doanh nghiệp đầu tư cho công tác BVMT thông qua sử dụng các công cụ tài chính như thuế, lãi suất, giá cả… hoặc công cụ tài chính khác (phát hành trái phiếu, vay nợ từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước…). Cần mở rộng phạm vi đối tượng ưu đãi thuế nhập khẩu đối với các phương tiện, vật liệu… phục vụ trực tiếp xây dựng các công trình BVMT, đặc biệt là công trình tại các làng nghề mà trong nước chưa sản xuất được hoặc chưa đáp ứng được tiêu chuẩn trong xây dựng công trình BVMT, nhất là trong lĩnh vực giao thông vận tải và phát triển đô thị sinh thái không thuộc danh mục đặc biệt khuyến khích đầu tư được hưởng ưu đãi thuế nhập khẩu.

    Tăng mức ưu đãi thuế và mở rộng phạm vi đối tượng được hưởng ưu đãi thuế, điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế TNDN, ưu đãi miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất… đối với các doanh nghiệp thực hiện các dự án xây dựng công trình BVMT làng nghề, dự án phát triển du lịch sinh thái làng nghề,… để khuyến khích các DN đầu tư vào lĩnh vực BVMT. Mặt khác, sử dụng đầy đủ các công cụ kinh tế, công cụ kỹ thuật khác để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động dịch vụ môi trường, tăng tính cạnh tranh thị trường để nâng cao chất lượng dịch vụ, đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực dịch vụ môi trường tại các làng nghề hiện nay.

    Đẩy mạnh phát triển thị trường vốn và hoàn thiện khung pháp lý về hỗ trợ tài chính của Nhà nước thông qua hình thức cho vay vốn với lãi suất ưu đãi và các công cụ nợ của doanh nghiệp để khuyến khích doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực BVMT huy động vốn thông qua thị trường mở đầu tư cho công tác BVMT làng nghề. Xem xét việc mở rộng đối tượng được hỗ trợ tài chính đối với các doanh nghiệp đầu tư các dự án, công trình xanh khu dân cư, sản xuất vật liệu thân thiện với môi trường… Bên cạnh đó, xây dựng, và ban hành khung chính sách về tài chính, sản phẩm tài chính cho các DN hoạt động liên quan lĩnh vực BVMT làng nghề hoạt động trên thị trường vốn mở: thực hiện từng bước đối với lĩnh vực ưu tiên BVMT về phát hành trái phiếu doanh nghiệp…

    Đối với các DN mở động đầu tư trong lĩnh vực BVMT thông qua việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện hiệu quả các chính sách khuyến khích và hỗ trợ kỹ thuật cho các tổ chức tài chính, tín dụng cung cấp các khoản vốn cho vay để hỗ trợ DN: hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực hoạt động tài chính - tín dụng của các ngân hàng, khuyến khích các ngân hàng thương mại tham gia các Chương trình liên quan về BVMT làng nghề để cung cấp các khoản vay hỗ trợ DN, nhất là DN nhỏ và vừa thực hiện các dự án đầu tư trong lĩnh vực BVMT, nhất là đối với lĩnh vực BVMT làng nghề. Đồng thời, hoàn thiện khung cơ chế quy định về tín dụng xanh, ngân hàng xanh, tài chính xanh nhằm thúc đẩy vốn tín dụng ngân hàng vào các ngành sản xuất và tiêu dùng ít các-bon… xây dựng, ban hành hướng dẫn về danh mục xanh và tiêu chí xác định dự án xanh phù hợp với phân ngành kinh tế của Việt Nam, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng có căn cứ thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh.

Bốn là, nguồn vốn tài trợ/vốn vay của các nước, các tổ chức quốc tế

    Khuyến khích và hỗ trợ các cơ quan nhà nước, các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế về BVMT làng nghề, vận động và tranh thủ sự ủng hộ đối với công tác BVMT làng nghề của các quỹ tài chính, tổ chức quốc tế để tiếp cận các khoản tài chính hỗ trợ kỹ thuật trong xây dựng, thực hiện công tác BVMT làng nghề tại Việt Nam.

    Chú trọng chính sách ngoại giao kinh tế nhằm đẩy mạnh hoạt động ngoại giao kinh tế thân thiện môi trường ở cấp Chính phủ, Bộ/ngành... với các hình thức đối thoại, hợp tác đa dạng để chủ động kiến tạo các chương trình hỗ trợ quốc tế liên quan đến lĩnh vực BVMT làng nghề, hỗ trợ pháp lý trong huy động và triển khai các chương trình hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và các đối tác lớn.  

    Ngoài ra, đối với chính sách vay nợ trong và ngoài nước, vừa bảo đảm nguồn lực tài chính bù đắp bội chi ngân sách nhà nước, tăng cường nguồn vốn chi cho đầu tư BVMT, đặc biệt là BVMT tại làng nghề vừa xác định đúng giới hạn an toàn nợ công, bảo đảm an toàn tài chính quốc gia. Cần sửa đổi, bổ sung chính sách nợ Chính phủ và sử dụng các công cụ nợ Chính phủ phù hợp với thực tế nợ công của Việt Nam và thông lệ quốc tế. Bổ sung các tiêu chí đặc thù khác để mở rộng khả năng vay nợ của chính quyền địa phương trên cơ sở nghĩa vụ trả nợ và khả năng trả nợ của từng đơn vị địa phương cấp tỉnh.

    Trên đây là một số đề xuất hoàn thiện cơ chế huy động nguồn lực tài chính cho xây dựng, thực hiện phương án bảo vệ môi trường làng nghề. Tuy nhiên, việc bảo đảm và tăng cường công khai, minh bạch trong quản lý hành chính cũng là một nội dung hết sức quan trọng, nhằm mục đích nâng cao hiệu quả công tác huy động, sử dụng các nguồn lực BVMT làng nghề. Ngoài ra, việc công khai, minh bạch trong quá trình sử dụng nguồn lực giảm bớt khoảng cách cũng như mức độ không đồng nhất về cách hiểu do sự chênh lệch thông tin giữa các đối tượng sử dụng. Cần công khai, minh bạch trong các nội dung BVMT, đặc biệt là nội dung về huy động nguồn lực thực hiện: công bố công khai chủ trương và kế hoạch, phương án triển khai công tác về BVMT của địa phương; các hoạt động, nguồn vốn đầu tư cho từng hoạt động, nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn, tiến độ thực hiện các hạng mục... để nhân dân tìm hiểu, đóng góp ý kiến và tham gia giám sát; công bố công khai cơ chế huy động sự tham gia đóng góp, kết quả huy động sự tham gia đóng góp cho công tác BVMT để nhân dân giám sát đối với các công trình, dự án đầu tư… phát huy quyền làm chủ của người dân và huy động được sự đóng góp tự nguyện của người dân.

Đỗ Hương

 

Ý kiến của bạn