14/03/2018
Năm 2007, Việt Nam đã triển khai chương trình hỗ trợ xây dựng thí điểm 5 VPX của Quỹ quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (WWF). Các văn phòng được hỗ trợ để đáp ứng các tiêu chuẩn GO WWF (là tiêu chuẩn VPX). Tuy nhiên, mô hình VPX theo chuẩn WWF chưa được nhân rộng. Một số hệ thống dán nhãn và cấp chứng nhận khác cho tòa nhà xanh (LEEDs) và khách sạn xanh (LOTUS) đã được quảng bá, nhân rộng, tuy nhiên các hệ thống này thích hợp với doanh nghiệp, tổ chức lớn và yêu cầu nguồn vốn đầu tư lớn để xây mới, sửa chữa lại theo hướng “xanh”. VPX sẽ tập trung thay đổi ý thức và hành vi của nhân viên hướng tới thực hành tiêu dùng bền vững, không ngừng cải tiến và thực hiện những giải pháp sử dụng hiệu quả tài nguyên, tạo môi trường làm việc lành mạnh và thân thiện.
Dán nhãn nhắc nhở tiết kiệm điện và nước - một trong các sáng kiến VPX
Bên cạnh đó, VPX sẽ đưa ra những giải pháp đóng góp cho các mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs) liên quan đến môi trường, lối sống bền vững (các bon thấp) và chống biến đổi khí hậu. Giải pháp VPX sẽ giúp tổ chức/doanh nghiệp giảm chi phí cho tiêu dùng (chi phí in giảm đến 50%), giảm phát thải KNK (giảm đến 20%) và ô nhiễm môi trường thông qua sử dụng hiệu quả điện (thay một bóng đèn ICL 100W bằng một bóng đèn CFL 20Wcó thể giảm phát thải CO2 bình quân 1 năm là 83 kg, sử dụng điều hòa 5 sao công suất 1.650 thay cho điều hòa 2 sao công suất tương tự có thể giảm phát thải CO2 bình quân 1 năm là 283 kg), giấy in… Những tác động từ sự thay đổi của hàng triệu nhân viên trong việc sử dụng hiệu quả tài nguyên sẽ đóng góp không nhỏ cho mục tiêu giảm phát thải ra môi trường.
Tiến trình thực hiện VPX bao gồm 5 bước chính: Chuẩn bị; Đánh giá thực trạng; Xây dựng phong cách sống xanh cho nhân viên và triển khai sáng kiến bền vững; Đánh giá kết quả triển khai; Hoàn thiện hệ thống quản lý môi trường. Hiện Dự án VPX (do Tổ chức Môi trường Liên hợp quốc tài trợ và Viện Công nghệ châu Á tại Việt Nam thực hiện) đã xây dựng một Bộ công cụ triển khai lối sống bền vững tại văn phòng. Bộ công cụ hướng dẫn tổ chức xây dựng hệ thống quản lý môi trường (nhóm chuyên trách, các chính sách, ban hành các quy định, quy trình thực hiện, lên kế hoạch hành động cải tiến không ngừng, nỗ lực giảm phát thải từ các hoạt động của văn phòng mà trong đó sự đóng góp sáng kiến và tham gia thực hành của nhân viên văn phòng là nòng cốt), tập huấn xây dựng phong cách sống xanh cho nhân viên văn phòng, hướng dẫn xây dựng cẩm nang thực hành tiêu dùng cho các tiêu thụ chính trong văn phòng như điện, nước, giấy, thiết bị văn phòng, thải bỏ, đánh giá sự thay đổi nhận thức và hành vi tiêu dùng của nhân viên.
Cùng với đó, Dự án VPX cũng xây dựng bộ tiêu chuẩn VPX nhằm giúp văn phòng thiết lập các quy trình kiểm kê KNK, xác định các nguồn chính của khí thải các bon, đề xuất các bước cần thiết để giám sát cũng như đưa ra hướng dẫn báo cáo, thẩm tra phát thải KNK.
Như vậy, để xây dựng một VPX, công ty/tổ chức cần xây dựng một hệ thống quản lý môi trường “đơn giản” (EMS), cho phép lập kế hoạch và triển khai một cách hệ thống những giải pháp cải tiến, thực hành hiệu quả, đảm bảo quá trình cải tiến được liên tục. Hệ thống EMS được tích hợp, lồng ghép trong các hoạt động hàng ngày của nhân viên, kế hoạch năm cũng như hệ thống quản lý chung của tổ chức. Mặt khác, để thành công, VPX cần sự cam kết của lãnh đạo, bố trí cán bộ chuyên trách điều phối các hoạt động, sáng kiến bền vững và một nhóm cán bộ được giao nhiệm vụ xây dựng VPX (GO Team), có khả năng xác định được tác động môi trường đối với việc tiêu dùng của văn phòng (tập trung chính vào tiêu dùng điện, nước, giấy, văn phòng phẩm, đi lại, quản lý rác thải, môi trường làm việc của nhân viên, các quy trình và chính sách mua bán của tổ chức). Đồng thời, thực hiện đào tạo thay đổi hành vi tiêu dùng của nhân viên, khuyến khích các sáng kiến tiêu dùng bền vững, đặc biệt GO Team sẽ giúp lãnh đạo xây dựng mục tiêu và chính sách tiêu dùng bền vững của tổ chức. GO Team sẽ xây dựng hệ thống EMS, cho phép đo lường và theo dõi quá trình xây dựng VPX, cũng như sự đóng góp của mỗi cá nhân vào quá trình giảm lượng phát thải của tổ chức.
Nguyễn Thị Bích Hòa
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 2/2018