09/06/2017
Theo các nhà khoa học, ảnh hưởng của con người là nguyên nhân số một gây ra hiệu ứng nóng lên toàn cầu, đặc biệt là nạn phá rừng và tăng lượng khí thải các bon từ hoạt động đốt cháy nhiên liệu hóa thạch. CO2, metan và các hóa chất khác do con người thải ra bầu khí quyển hoạt động như một tấm màn, giữ lại sức nóng từ mặt trời và khiến Trái đất nóng lên. Điều này thay đổi hệ khí hậu của Trái đất, trong đó có đất đai, khí quyển, đại dương và băng. Nhiệt độ cao hơn cũng khiến các thảm họa thiên nhiên như bão, lũ lụt, nắng nóng và hạn hán diễn ra nhiều hơn với cường độ mạnh hơn.
Nắng nóng kéo dài
Các đợt nắng nóng kéo dài khiến đất đai khô cằn, gây ra tình trạng khan hiếm nước sạch, cháy rừng lan rộng mất kiểm soát, bão bụi và lũ quét. Ở nhiều nơi trên thế giới, việc thiếu nước dẫn tới bệnh dịch nghiêm trọng. Trái lại, mưa lớn khiến sông hồ tràn nước, phá hủy nhà cửa, làm nguồn nước uống nhiễm bẩn, rác thải lan tràn và không khí ô nhiễm. Đồng thời, điều kiện nóng ẩm cũng tạo thuận lợi cho bệnh dịch lây lan qua nước và thức ăn phát triển, cũng như các loài côn trùng truyền bệnh như muỗi, rận... sinh trưởng.
Các nhà khoa học cũng chỉ ra rằng, biến đổi khí hậu (BĐKH) là mối đe dọa sức khỏe toàn cầu lớn nhất thế kỷ 21 và tác động mạnh mẽ nhất tới trẻ em, người lớn tuổi, các cộng đồng nghèo đói, dân tộc thiểu số. Với số ngày nóng tăng lên ở những khu vực trước đây chưa từng xảy ra điều này, người dân không có điều hòa hoặc không đủ điều kiện chi trả, các đợt nóng kéo dài sẽ dẫn tới hậu quả nghiêm trọng, xuất hiện những bệnh nguy hiểm như đột quỵ, say nắng, ảnh hưởng tới tim mạch, thận...
Các đợt nóng kéo dài ảnh hưởng tới sức khỏe con người (Ảnh: Vox)
Không khí bẩn hơn
Nhiệt độ tăng cao cũng khiến tình trạng ô nhiễm không khí trầm trọng hơn do tầng ozone mặt đất dày lên (khi khí thải từ xe cộ, nhà máy, các nguồn khác phản ứng với ánh sáng mặt trời và nhiệt độ). Tầng ozone mặt đất là nhân tố chính gây sương mù quang hóa và nhiệt độ càng tăng thì lớp sương mù càng dày. Không khí bẩn khiến tỷ lệ nhập viện và tử vong ở bệnh nhân hen suyễn tăng lên, làm tình trạng người bị bệnh tim hay phổi trầm trọng hơn.
Tỷ lệ tuyệt chủng tăng lên
Khi mặt đất và đại dương trải qua những biến đổi nhanh chóng và mạnh mẽ, các loài động, thực vật sẽ biến mất nếu không kịp thích nghi. Nhiều loài động vật trên cạn và dưới nước đã di chuyển tới các vùng mát hơn hoặc lên độ cao lớn hơn để thoát khỏi tình trạng nóng lên toàn cầu. Chúng cũng thay đổi hành vi theo mùa và quy luật di cư.
Tuy nhiên, nhiều loài vẫn phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Một nghiên cứu năm 2015 cho thấy các loài có xương sống (cá, chim, động vật có vú, bò sát, lưỡng cư) đang biến mất với tốc độ nhanh hơn 114 lần so với thông thường - một hiện tượng có liên hệ mật thiết với BĐKH, ô nhiễm và phá rừng.
Băng tan khiến nước biển dâng cao
Các vùng cực đặc biệt nhạy cảm với hiện tượng nóng lên toàn cầu. Nhiệt độ trung bình ở Bắc Cực tăng nhanh gấp đôi các vùng khác và băng cũng đang tan rất nhanh. Điều này không chỉ gây ảnh hưởng nặng nề tới con người và hệ động, thực vật khu vực mà còn khiến mực nước biển dâng cao. Dự kiến đến năm 2.100, nước biển sẽ dâng lên khoảng 30 - 130 cm, đe dọa hệ san hô và các khu vực thấp của thế giới. Các quốc đảo và những thành phố lớn như New York, Los Angeles, Mumbai, Sydney, Rio de Janeiro... sẽ chìm dưới nước.
Bên cạnh đó, nước biển cũng có độ axit cao hơn, phần lớn là do hấp thụ khí thải. Nếu nồng độ này tiếp tục tăng lên, hệ sinh vật dưới biển sẽ phải đối mặt với nguy cơ diệt vong lớn, nhất là các loài có vỏ hoặc xương như thân mềm, cua và san hô.
Rõ ràng, BĐKH khiến tương lai loài người trở nên mong manh. Điều đáng sợ là đã quá muộn để quay ngược chiều kim đồng hồ, khi chúng ta thải vào không trung lượng khí thải khổng lồ. Dù có ngừng mọi hoạt động tạo ra CO2, con người cũng sẽ vẫn phải đối mặt với hậu quả. Tuy nhiên, nếu tích cực giảm lượng khí thải toàn cầu, hậu quả của BĐKH sẽ nhẹ hơn.
Nguyễn Hằng (Theo Khoahoc.tv)