30/11/2021
Những năm qua, các cấp chính quyền, ngành chức năng tỉnh Nam Định đã nỗ lực thực hiện đồng bộ các biện pháp quản lý, hỗ trợ các cơ sở, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, dịch vụ chấp hành các quy định pháp luật về BVMT, bao gồm: Tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về BVMT…
Từ năm 2008 đến nay, đã có 673 cơ sở, doanh nghiệp trên toàn tỉnh bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT với tổng số tiền gần 16,4 tỷ đồng. Cùng với phát triển, các cơ quan chuyên môn còn yêu cầu các cơ sở, doanh nghiệp phải khắc phục ngay tồn tại, vi phạm trong thời hạn quy định; giao chính quyền địa phương nơi cơ sở hoạt động đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc khắc phục vi phạm của cơ sở. Nhờ đó, các cơ sở, doanh nghiệp ạm đã nâng cao ý thức, tự giác chấp hành nghiêm quy định của pháp luật về BVMT. Theo Báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh giai đoạn 2016 - 2020 cùng thực tế quản lý nhà nước về BVMT năm 2021 trong các cơ sở, doanh nghiệp cho thấy, việc chấp hành quy định pháp luật về BVMT trong cơ sở, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh đã có nhiều chuyển biến tích cực, hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn thực hiện tương đối đầy đủ các thủ tục về môi trường và chú trọng các biện pháp, đầu tư các công trình BVMT. Tuy nhiên, việc chấp hành quy định pháp luật về BVMT của một số cơ sở, doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hộ sản xuất nằm xen kẽ trong khu dân cư, cụm công nghiệp, làng nghề còn hạn chế như: Tình trnajg nước thải, khí thải sau xử lý còn có thông số chưa đạt quy chuẩn môi trường cho phép; thực hiện chưa đúng quy định về khu vực lưu giữ chất thải nguy hại, tần suất và thông số quan trắc môi trường; chưa thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo về môi trường theo quy định…
Theo Chi cục BVMT (Sở TN&MT tỉnh Nam Định), nguyên nhân chính là do ý thức, trách nhiệm của các cơ sở, doanh nghiệp và bất cập từ hành lang pháp lý. Luật BVMT năm 2014 trong quá trình triển khai thực hiện đã bộc lộ những vướng mắc, bất cập, chồng chéo với một số văn bản quy phạm pháp luật khác; một số điều, khoản của Luật thiếu tính khả thi dẫn đến việc áp dụng, thực thi công tác quản lý BVMT của các ngành, địa phương (trong đó có công tác quản lý BVMT tại cơ sở, doanh nghiệp) gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, Luật BVMT năm 2014 có quy định chồng chéo với Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Xây dựng, Luật Tài nguyên nước và Khoáng sản, Luật Thủy sản, Luật Đê điều... cùng một nội dung nhưng nhiều cơ quan quản lý khiến các doanh nghiệp phải thực hiện nhiều thủ tục hồ sơ về BVMT. Bên cạnh đó, hệ thống chính sách, các quy định hướng dẫn liên quan đến công tác quản lý chất thải rắn chưa hoàn thiện; thiếu hướng dẫn về lựa chọn công nghệ, kỹ thuật phù hợp cho việc thu gom, lưu giữ, xử lý chất thải rắn công nghiệp, chất thải rắn sinh hoạt. Luật BVMT năm 2014 chưa phân cấp mạnh trong công tác BVMT, chưa phân công rõ vai trò, trách nhiệm từng cấp, từng ngành trong việc thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời vi phạm pháp luật về BVMT; chưa hài hòa, tiệm cận với pháp luật quốc tế, đặc biệt đối với các doanh nghiệp có hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa đòi hỏi công tác BVMT phù hợp với luật pháp quốc tế.
Nhằm hoàn thiện thể chế, chính sách, quy định pháp luật về BVMT, trong đó có quy định BVMT tại các cơ sở, doanh nghiệp phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất về BVMT, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về BVMT, đáp ứng yêu cầu đặt ra của giai đoạn hội nhập, phát triển mới, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật BVMT năm 2020 tại Kỳ họp thứ 10 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2022. Luật BVMT năm 2020 được đánh giá đã sửa đổi, bổ sung, khắc phục tương đối các hạn chế của Luật BVMT năm 2014. Đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quy định mới trong Luật BVMT năm 2020 gồm: Có nhiều quy định nhằm cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, giảm thời gian và chi phí tuân thủ của doanh nghiệp; đã tích hợp 7 loại giấy phép, xác nhận vào 1 giấy phép môi trường; thu hẹp đối tượng phải thực hiện đánh giá tác động môi trường (tập trung vào những dự án lớn thuộc nhóm I và dự án nhóm II có yếu tố nhạy cảm về môi trường như xả thải vào nguồn nước cấp sinh hoạt, trong khu bảo tồn thiên nhiên, rừng, di tích lịch sử văn hóa…).
Đồng thời, phân loại dự án đầu tư theo các tiêu chí về môi trường nhưng bảo đảm đồng bộ, thống nhất với pháp luật về đầu tư công, đầu tư, xây dựng và pháp luật liên quan; kiểm soát chặt chẽ dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao; chuyển từ chủ yếu tiền kiểm sang chủ yếu hậu kiểm; cụ thể hóa nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Luật cũng đã phân cấp mạnh mẽ cho địa phương thông qua chế định giao UBND cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với các bộ có liên quan thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với những dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư của các bộ quản lý công trình xây dựng chuyên ngành; quy định các bộ liên quan có trách nhiệm phối hợp với UBND cấp tỉnh trong quá trình thực hiện nhằm bảo đảm hiệu quả. Quy định này sẽ bảo đảm quản lý thống nhất tại địa phương, thuận lợi cho công tác kiểm tra, giám sát, cấp phép sau này và phù hợp với xu hướng phân cấp cho địa phương như hệ thống pháp luật hiện hành. Ngoài ra, Luật đã đưa chính sách môi trường của Việt Nam hài hòa tiệm cận với pháp luật quốc tế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để Việt Nam tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Để Luật BVMT năm 2020 đảm bảo thực thi đồng bộ, hiệu quả và nhanh chóng đi vào đời sống nhân dân, ngày 29/4/2021, UBND tỉnh Nam Định đã ban hành Kế hoạch số 50/KH-UBND về tổ chức triển khai thi hành Luật, trong đó yêu cầu các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân cần chủ động nghiên cứu quy định của Luật; các sở, ban, ngành, cơ quan liên quan, chính quyền địa phương các cấp phải phối hợp đồng bộ để tổ chức triển khai thi hành Luật kịp thời, toàn diện, thống nhất, phù hợp với đặc điểm tình hình của từng đơn vị, địa phương, đối tượng. Đồng thời, tỉnh xác định rõ trách nhiệm, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các sở, ban, ngành, các cơ quan, đơn vị, địa phương trong việc tổ chức triển khai thi hành Luật.
Thực hiện kế hoạch chỉ đạo của UBND tỉnh, các sở, ban, ngành, UBND cấp huyện, xã, các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan thông tin đại chúng trên đại bàn tỉnh đang tập trung tuyên truyền, tập huấn, phổ biến Luật BVMT năm 2020 bằng nhiều hình thức: Tổ chức hội nghị triển khai Luật từ tỉnh tới huyện, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh (từ nay đến quý I/2022); biên soạn, in ấn tài liệu và tờ rơi về Luật, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật; kẻ vẽ pa nô, khẩu hiệu tuyên truyền có nội dung liên quan đến công tác BVMT, Luật BVMT năm 2020; tuyên truyền trên hệ thống truyền thông đại chúng…
Về phía Sở TN&MT tỉnh Nam Định, căn cứ vào nhiệm vụ của ngành, thời gian qua, đơn vị đã chủ trì, phối hợp, hướng dẫn các sở, ban, ngành, địa phương, đơn vị liên quan chú trọng tuyên truyền để toàn dân hiểu rõ những điểm mới mang tính đột phá, cải tiến, phù hợp với tình hình thực tế trong các quy định về công tác BVMT; phối hợp với các ngành, địa phương, đơn vị liên quan đẩy mạnh phổ biến Luật BVMT năm 2020, trong đó, chú trọng phổ biến, hướng dẫn, giúp các cơ sở, doanh nghiệp nắm bắt rõ thời hạn chính thức áp dụng Luật và thực hiện đầy đủ, đúng, trúng các quy định mới về BVMT trong sản xuất, kinh doanh dịch vụ.
Thời gian tới, Sở TN&MT tỉnh Nam Định sẽ tiếp tục chủ trì, phối hợp với các sở, ngành: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Giao thông Vận tải, Y tế, NN&PTNT, Xây dựng; các huyện, thành phố và đơn vị hữu quan rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến lĩnh vực BVMT đang có hiệu lực thi hành, kiến nghị việc sửa đổi bổ sung, đảm bảo sự thống nhất, phù hợp với các quy định của Luật BVMT năm 2020; tham mưu theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật BVMT năm 2020 đảm bảo đúng trình tự và thời gian. Cùng với đó, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra công tác triển khai Luật BVMT năm 2020; chú trọng nắm bắt tình hình thực tế, thuận lợi khó khăn trong việc triển khai, thực thi Luật trên phạm vi toàn tỉnh để tham mưu điều chỉnh Kế hoạch triển khai Luật cho phù hợp; phân công cán bộ chuyên trách thường xuyên tuyên truyền, hướng dẫn, giám sát các doanh nghiệp thực hiện tốt Luật BVMT năm 2020, đảm bảo các nguồn phát thải từ cơ sở, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh dịch vụ được kiểm soát và đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường hiện hành; lập trang mạng xã hội kết nối các doanh nghiệp trên địa bàn nhằm trao đổi, giải đáp, chia sẻ khó khăn, vướng mắc, hướng dẫn đưa ra giải pháp BVMT phù hợp với quy định của Luật BVMT năm 2020; tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về BVMT (nếu có) từ hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ trên địa bàn
Với quyết tâm của cả hệ thống chính trị, sự cố gắng, nỗ lực cao của toàn ngành TN&MT, cùng sự tích cực quan tâm, vào cuộc của người dân, doanh nghiệp, toàn tỉnh đặt ra mục tiêu tổ chức triển khai thực hiện Luật BVMT năm 2020 một cách hiệu quả nhất.
An Vi