28/12/2021
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu tiếp cận thông tin, khai thác sử dụng thông tin, trong đó có thông tin, dữ liệu môi trường ngày càng cao, đặc biệt là loại hình thông tin, dữ liệu dạng số. Các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường đã và đang tiếp tục đóng vai trò rất lớn trong việc cập nhật và cung cấp chính xác, kịp thời các thông tin, dữ liệu môi trường dạng số cho chính phủ, các tổ chức và cá nhân. Tuy nhiên, trong thực tế triển khai, việc quản lý và khai thác các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường, cung cấp dữ liệu môi trường vẫn còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế.
Luật BVMT năm 2014 đã quy định các nội dung tổng quát của thông tin môi trường, vấn đề thu thập, quản lý, công bố, cung cấp và công khai thông tin môi trường. Tuy nhiên, các nội dung quy định của Luật và các Nghị định hướng dẫn thi hành đều chưa có các quy định cụ thể về đối tượng, nội dung, hình thức, thời gian và tần suất cung cấp và công khai thông tin môi trường. Bên cạnh đó, Luật năm 2014 cũng chưa có các quy định về hệ thống thông tin môi trường và cơ sở dữ liệu môi trường, một công cụ quan trọng trong việc quản lý thống nhất và kết nối, chia sẻ thông tin môi trường giữa các cấp, các ngành; hỗ trợ cung cấp thông tin, dữ liệu môi trường dạng số khi có yêu cầu.
Trên thực tế,việc triển khai Chính phủ số, Chính phủ điện tử, trọng tâm là việc triển khai hệ thống dịch vụ công trực tuyến, đưa mọi hoạt động trong đó có các dịch vụ dữ liệu mới như cung cấp, công khai thông tin dữ liệu lên môi trường số đã và đang tiếp tục được đẩy mạnh trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước. Đối với lĩnh vực môi trường, do thiếu cơ sở pháp lý nên việc triển khai hệ thống thông tin môi trường và cơ sở dữ liệu môi trường các cấp trong thực tế còn thiếu sự đồng bộ, mỗi nơi triển khai một kiểu, gây khó khăn trong việc kết nối, chia sẻ và liên thông giữa các hệ thống, đặc biệt giữa cấp trung ương với địa phương, việc kết nối giữa các Bộ ngành với Bộ TN&MT cũng chưa được triển khai. Với những lý do nêu trên, Luật BVMT năm 2020 đã điều chỉnh và bổ sung những quy định còn thiếu đồng thời giao trách nhiệm cho Chính phủ và Bộ TN&MT quy định chi tiết và hướng dẫn triển khai đối với một số nội dung về thông tin môi trường, hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu môi trường, cụ thể như sau:
Đối với nội dung về thông tin môi trường và quản lý thông tin môi trường, Luật năm 2020 tập trung làm rõ các quy định về nội dung thông tin môi trường, trách nhiệm của các nhóm đối tượng trong quản lý, cung cấp, công khai thông tin môi trường. Luật cũng đã bổ sung quy định về hình thức cung cấp thông tin của các Bộ ngành, UBND cấp tỉnh, chủ dự án đầu tư, cơ sở cho Bộ Tài nguyên và Môi trường thông qua hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia (bên cạnh báo cáo theo quy định của pháp luật); bổ sung quy định hình thức công khai thông tin trên cổng thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức hoặc bằng hình thức khác, bảo đảm thuận tiện cho các đối tượng tiếp nhận thông tin.
Trên cơ sở quy định tại Điều 114 Luật BVMT 2020 và một số điều khoản có liên quan, trong Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật BVMT đã dành 4 điều quy định về thông tin môi trường, bao gồm:
Quản lý thông tin môi trường: quy định chi tiết hơn một số nội dung thông tin môi trường đã được quy định tại khoản 1 Điều 114 và quy định hoạt động quản lý thông tin môi trường gồm thu nhận, tích hợp, lưu giữ, cung cấp và xử lý, tổng hợp thông tin môi trường;
Cung cấp thông tin môi trường cho cơ quan quản lý thông tin môi trường: quy định về hình thức, thời điểm và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc cung cấp thông tin môi trường cho cơ quan quản lý thông tin môi trường. Theo đó, một trong những hình thức chính là thông qua hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường các cấp.
Cung cấp thông tin môi trường theo yêu cầu của các tổ chức, cá nhân: hoạt động này được xác nhận là một thủ tục hành chính nên phải bảo đảm đúng các yêu cầu, quy định về hình thức, trình tự thủ tuc và hồ sơ của một thủ tục hành chính, đồng thời tuân thủ các quy định của pháp luật về Tiếp cận thông tin, pháp luật về sở hữu trí tuệ và các quy định có liên quan khác. Một điểm đáng lưu ý là quy định một trong những hình thức cung cấp thông tin thông qua dịch vụ công trực tuyến và dịch vụ dữ liệu. Đây là những hình thức đang được đẩy mạnh triển khai tại Bộ TN&MT.
Công khai thông tin môi trường: quy định chi tiết về nội dung, hình thức, thời điểm và thời gian công khai thông tin môi trường theo từng nhóm đối tượng khác nhau, từ các chủ dự án, cơ sở, chủ đầu tư đến cơ quan quản lý nhà nước về BVMT các cấp và một số đối tượng khác. Theo đó, hình thức công khai thông tin trên cổng thông tin điện tử được quy định ở hầu hết các nhóm đối tượng. Đây là một trong những hình thức có thể cung cấp thông tin nhanh, cập nhật, kịp thời và khá thuận tiện cho các đối tượng cộng đồng có thể tiếp cận.
Đối với nội dung về Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu môi trường, Luật BVMT năm 2020 đã dành riêng Điều 115 để quy định. Hệ thống thông tin môi trường là một hệ thống đồng bộ theo một kiến trúc tổng thể bao gồm con người, máy móc thiết bị, kỹ thuật, dữ liệu và các chương trình làm nhiệm vụ thu nhận, xử lý, lưu trữ và phân phối thông tin về môi trường cho người sử dụng trong một môi trường nhất định. Cơ sở dữ liệu môi trường là hợp phần quan trọng, cốt lõi của hệ thống thông tin môi trường. Các nội dung được quy định bao gồm: định hướng chính sách đầu tư, phát triển hệ thống thông tin môi trường hướng tới phát triển nền tàng số, kinh tế số về môi trường; trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND cấp tỉnh trong xây dựng, quản lý và khai thác hệ thống thông tin môi trường quốc gia, cơ sở dữ liệu môi trường theo phân cấp quản lý, bảo đảm tính đồng bộ, khả năng tích hợp, kết nối, liên thông với cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia.
Trên cơ sở quy định của Luật, tại Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật BVMT năm 2020, đã có 5 điều là cơ sở pháp lý quan trọng để triển khai xây dựng, quản lý và vận hành các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường các cấp, cụ thể:
Quy định về chính sách đầu tư xây dựng, sử dụng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường, trong đó, một số định hướng trọng tâm đã được đề cập như phát triển các nền tảng dữ liệu số, công nghệ số về môi trường phục vụ công tác quản lý nhà nước, hoạch định chính sách; chuyển đổi phương thức hoạt động của các cơ quan nhà nước, giữa cơ quan nhà nước với người dân, doanh nghiệp trên môi trường số và công nghệ số; khuyến khích các tổ chức, cá nhân, cộng đồng tham gia thu nhận, đóng góp, chia sẻ và khai thác, cung cấp các dịch vụ, giá trị gia tăng, tạo lập thị trường nội dung số về dữ liệu, thông tin về môi trường…
Quy định về bảo đảm hoạt động của hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường các cấp bao gồm các yêu cầu từ trách nhiệm bố trí kinh phí đầu tư, xây dựng, quản lý và vận hành; yêu cầu bảo đảm nguồn nhân lực vận hành và quản lý. Trong đó ưu tiên, khuyến khích đầu tư theo phương thức hợp tác với khu vực tư nhân, các hình thức thuê dịch vụ công nghệ thông tin, tận dụng nguồn lực của các thành phần kinh tế.
Quy định về các yêu cầu đối với cơ sở dữ liệu môi trường các cấp, trong đó nêu rõ cơ sở dữ liệu môi trường của cấp nào do cấp đó xây dựng, quản lý và vận hành, tuy nhiên phải bảo đảm tuân thủ khung kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam và kiến trúc Chính phủ điện tử cấp Bộ hoặc kiến trúc Chính quyền điện tử cấp tỉnh hiện hành; đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật theo quy định; sử dụng thống nhất danh mục dữ liệu dùng chung, dữ liệu chủ trong cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia; Việc kết nối, chia sẻ, liên thông giữa cơ sở dữ liệu môi trường các cấp phải tuân thủ các quy định của Chính phủ về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số trong cơ quan nhà nước; các quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ TN&MT.
Quy định về cung cấp, cập nhật thông tin, dữ liệu cho cơ sở dữ liệu môi trường: bên cạnh các quy định về trách nhiệm của các bên có liên quan, Nghị định còn quy định rõ hình thức cung cấp, cập nhật được thực hiện thông tin thông qua việc kết nối, chia sẻ, liên thông dữ liệu giữa cơ sở dữ liệu môi trường các cấp; khai báo, cập nhập dữ liệu trực tiếp qua các phần mềm ứng dụng; các thiết bị, hệ thống tự động, thông minh hoặc cung cấp thông tin dữ liệu bản điện tử trong trường hợp cơ quan quản lý nhà nước về BVMT chưa cung cấp 2 hình thức nêu ở trên.
Quy định về xây dựng, vận hành, quản lý cơ sở dữ liệu môi trường đưa ra các các nhiệm vụ cơ bản cần triển khai trong quá trình xây dựng, quản lý và vận hành cơ sở dữ liệu môi trường các cấp.
Từ các căn cứ pháp lý mang tính quy định chung trong Luật và Nghị định, tại Thông tư quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BVMT năm 2020 đã đưa ra các quy định, hướng dẫn kỹ thuật về xây dựng, quản lý và vận hành, khai thác các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường các cấp. Trong đó, Thông tư có 03 Điều về yêu cầu chung của hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường; các chức năng cơ bản và yêu cầu kỹ thuật đối với hệ thống thông tin môi trường. Tiếp đến là các quy định kỹ thuật đối với cơ sở dữ liệu môi trường các cấp bao gồm: Yêu cầu về kết nối, chia sẻ, liên thông giữa các cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia, Bộ, ngành và cấp tỉnh; Bảo đảm sự toàn vẹn và tính pháp lý của thông tin, dữ liệu môi trường trong cơ sở dữ liệu môi trường các cấp. Đặc biệt, Thông tư cũng đã quy định cụ thể về cấu trúc thông tin cơ bản của cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia và cấp tỉnh, danh mục dùng chung và dữ liệu chia sẻ mặc định của cơ sở dữ liệu môi trường các cấp.
Cấu trúc thông tin cơ bản của cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia và cấp tỉnh tuân thủ khung kiến trúc Chính phủ điện tử ngành tài nguyên và môi trường phiên bản 2.0, được chia thành 3 nhóm dữ liệu chính: nguồn thải, chất lượng môi trường và đa dạng sinh học. Trong mỗi nhóm dữ liệu, tiếp tục phân cấp thông tin từ đối tượng quản lý đến các trưởng thông tin cơ bản.
Danh mục dùng chung được quy định chi tiết trong phụ lục Thông tư là các danh mục, bảng mã phân loại được sử dụng chung trong các cơ sở dữ liệu môi trường bảo đảm việc tích hợp, trao đổi, chia sẻ dữ liệu đồng bộ, thống nhất. Danh mục dùng chung bao gồm danh mục dùng chung của hệ thống thông tin quản lý danh mục điện tử dùng chung của các cơ quan nhà nước phục vụ phát triển Chính phủ điện tử của Việt Nam; danh mục dùng chung của ngành tài nguyên và môi trường và danh mục dùng chung của lĩnh vực môi trường.
Dữ liệu chia sẻ mặc định quy định cho cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia và cấp tỉnh là các dữ liệu chứa các thông tin cơ bản được chia sẻ giữa các cơ sở dữ liệu môi trường các cấp theo phương thức chia sẻ mặc định. Dữ liệu chia sẻ mặc định bao gồm dữ liệu chủ trong cơ sở dữ liệu quốc gia, dữ liệu chủ trong cơ sở dữ liệu của Bộ, ngành, địa phương, dữ liệu danh mục dùng chung, dữ liệu đặc tả và các dữ liệu chia sẻ khác.
Nhìn chung, Luật BVMT năm 2020 và các Nghị định, Thông tư quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật đã bổ sung những quy định về hoạt động cung cấp, công khai thông tin môi trường. Đồng thời, làm rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường ở các cấp cũng như các chủ đầu tư, cơ sở trong việc cung cấp thông tin môi trường phục vụ công tác quản lý nhà nước, nâng cao hiệu quả công tác quản lý và khai thác thông tin môi trường. Đặc biệt, lần đầu tiên, Luật và các văn bản dưới Luật đã quy định khá cụ thể và chi tiết các nội dung, yêu cầu, hướng dẫn kỹ thuật về hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường. đây là những căn cứ pháp lý rất quan trọng để triển khai xây dựng và quản lý thống nhất hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về môi trường từ cấp quốc gia đến cấp Bộ ngành và địa phương, bảo đảm tính đồng bộ, khả năng tích hợp, kết nối, chia sẻ giữa các hệ thống, đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn đẩy mạnh chuyển đổi số, Chính phủ số trong các ngành, lĩnh vực nói chung, của ngành môi trường nói riêng. Với các quy định này, hoạt động quản lý, cung cấp thông tin dữ liệu môi trường cũng sẽ từng bước đáp ứng được các yêu cầu về tiếp cận, khai thác thông tin của các đối tượng trong cộng đồng.
Tuy nhiên, để có thể triển khai xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường ở các cấp một cách đồng bộ, khả thi và hiệu quả, các cơ quan được giao chức năng, nhiệm vụ về quản lý thông tn môi trường ở các cấp cần có sự chuẩn bị đầy đủ về hạ tầng công nghệ thông tin, nguồn nhân lực, kinh phí đầu tư xây dựng, quản lý và vận hành hệ thống, đồng thời cần xây dựng lộ trình triển khai và quy chế phối hợp giữa các cơ quan để tổ chức thực hiện.
Nguyễn Văn Thùy, Lê Hoàng Anh, Mạc Thị Minh Trà
Trung tâm Thông tin và Dữ liệu môi trường, Tổng cục Môi trường
(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 12/2021)