17/03/2021
Xu thế hội nhập và hợp tác quốc tế về BVMT
Hội nhập quốc tế là quá trình chủ động chấp nhận, áp dụng và tham gia xây dựng các luật lệ và chuẩn mực quốc tế nhằm phục vụ tối đa lợi ích quốc gia, dân tộc. Nói rộng ra, hội nhập quốc tế bao hàm việc chấp nhận, tham gia xây dựng và thực hiện các chuẩn mực quốc tế, bao gồm: các thể chế, luật lệ, tập quán, nguyên tắc và tiêu chuẩn chung được chấp nhận rộng rãi. Các chuẩn mực này có thể được hình thành từ quá trình hợp tác quốc tế, thông qua những hiệp định, thỏa thuận giữa các nhà nước hoặc chuẩn mực, tập quán được đặt ra bởi các tổ chức, hiệp hội phi chính phủ được những tổ chức, cá nhân trên thế giới chấp nhận rộng rãi.
Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX đến nay, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam dần dần được mở rộng và phát triển với quy mô ngày một to lớn hơn, bao gồm hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân (thương mại, dịch vụ, đầu tư, sản xuất công, nông, ngư nghiệp, sở hữu trí tuệ…) với nhiều hình thức đa dạng và phong phú (đơn phương, song phương, đa phương). Hai nội dung cốt lõi của quá trình hội nhập là: Một mặt, cải cách về kinh tế, đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội; mặt khác, thực hiện tự do hóa, mở cửa thị trường, xây dựng môi trường kinh doanh, tăng cường trao đổi mậu dịch, đầu tư, dịch vụ…với nước ngoài.
Việt Nam đã lần lượt tham gia vào các tổ chức khu vực và quốc tế, ký kết các hiệp định kinh tế song phương và đa phương với nhiều nước, nhiều tổ chức trên thế giới. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 nước, quan hệ kinh tế với hơn 224 nước và vùng lãnh thổ, trong đó quan hệ với 30 nước là đối tác chiến lược, toàn diện (16 đối tác chiến lược và 14 đối tác toàn diện) và là thành viên của hầu hết các tổ chức khu vực và quốc tế quan trọng với vị thế và vai trò ngày càng được nâng cao.
Trong thời gian qua, thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách về tăng cường hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội nhập quốc tế về kinh tế, nước ta đã đạt được thành tựu to lớn về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, ngoại giao và an ninh - quốc phòng… Đặc biệt, những thành tựu từ quá trình hội nhập quốc tế về kinh tế đã góp phần phát triển kinh tế đất nước ở mức cao và ổn định trong thời gian dài, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước. Bên cạnh tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng về kinh tế, hội nhập và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực TN&MT thời gian qua cũng đang được quan tâm thúc đẩy để đáp ứng với yêu cầu thực tế và xu thế hiện nay.
Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia và là thành viên của 28 hiệp định quốc tế đa phương liên quan đến lĩnh vực tài nguyên và môi trường (TN&MT) (MEAs), trong đó, đặc biệt là những Hiệp định thương mại tự do (FTA) được ký kết trong thời gian vừa qua đã tăng cường tính tương tác giữa các chính sách về thương mại và các chính sách liên quan đến môi trường. Hội nhập quốc tế nói chung và trong lĩnh vực TN&MT nói riêng đã góp phần nâng cao vai trò, vị thế và uy tín của Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế, đồng thời mang lại những lợi ích về nhiều mặt cho đất nước trong thời gian qua. Ngày nay, hội nhập quốc tế nói chung, hội nhập và hợp tác quốc tế về môi trường nói riêng tiếp tục diễn biến theo theo xu thế sâu hơn về nội dung và mức độ và rộng hơn về phạm vi, hình thức. Xu thế hội nhập và hợp tác quốc tế này đã và đang mang lại nhiều lợi ích, cơ hội và tiềm năng cho các quốc gia, nhưng đồng thời tạo ra những thách thức không nhỏ đối với những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Một số xu hướng chính trong hội nhập và hợp tác quốc tế lĩnh vực môi trường có thể được khái quát như: Phạm vi, quy mô và mức độ ngày càng lớn, nghĩa vụ và mức độ ràng buộc về pháp lý ngày càng tăng; Đa dạng, phong phú về nội dung và lĩnh vực, tiếp tục hình thành nhiều khuôn khổ hoặc “sân chơi” quốc tế với nhiều “luật chơi” mới ở nhiều quy mô về địa lý, từ vùng, khu vực và toàn cầu; Yêu cầu và đòi hỏi về trách nhiệm tăng khi tham gia, kèm theo sự đầu tư và đóng góp tài chính tăng; Cơ chế đánh giá, giám sát việc thực thi các nghĩa vụ đã cam kết trong quá trình hội nhập ngày càng chặt chẽ kèm theo chế tài xử lý khi không tuân thủ và thực thi nghĩa vụ đã cam kết.
Bộ Trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà và các thành viên Đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc về ĐDSH 2019
Những thuận lợi và khó khăn, thách thức trong hội nhập và HTQT về lĩnh vực môi trường
Hội nhập và hợp tác quốc tế (HTQT) về lĩnh vực môi trường diễn ra từ sớm cùng với tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước, trong đó một số nội dung theo thời gian đã có sự hội nhập khá sâu như bảo tồn và đa dạng sinh học hay chất thải và hóa chất. Quá trình hội nhập và HTQT về môi trường đã cơ bản đáp ứng được với xu thế của thế giới và phù hợp với tiến trình phát triển của đất nước, đóng góp tích cực cho quá trình xây dựng thể chế và hệ thống chính sách, pháp luật về BVMT của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực môi trường cũng có khó khăn, thách thức liên quan đến nhận thức, nguồn lực về tài chính, con người, trình độ kỹ thuật và công nghệ và vấn đề liên quan đến trách nhiệm cũng như cơ chế, chính sách liên quan, cụ thể:
Nguồn lực tài chính đầu tư cho các hoạt động liên quan đến hội nhập quốc tế về môi trường để đáp ứng các yêu cầu thực tế ngày càng cao của quá trình hội nhập còn nhiều hạn chế, dẫn đến việc bị động và phụ thuộc vào nguồn hỗ trợ từ bên ngoài, hoạt động hội nhập chưa thực sự đi vào thực chất và hiệu quả thực tế chưa cao.
Nguồn nhân lực tham gia vào quá trình quản lý và thực hiện hội nhập quốc tế hiện nay còn nhiều bất cập về số lượng, năng lực và kinh nghiệm do chưa có sự đầu tư chiến lược lâu dài về đào tạo nguồn nhân lực.
Hệ thống chính sách, pháp luật nói chung ở các ngành vẫn đang trong quá trình tiếp tục được hoàn thiện, việc phối hợp trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật để nội luật hóa nghĩa vụ quốc tế đã cam kết vẫn còn tồn tại những hạn chế và chưa hiệu quả, dẫn đến sự chồng chéo và mâu thuẫn về nội dung giữa các quy định hoặc khoảng trống trong quản lý, ảnh hưởng đến hiệu quả của việc thực thi.
Cơ chế điều phối, phối hợp giữa các cơ quan liên quan (Bộ, ngành) ở Trung ương và địa phương trong quá trình triển khai, thực thi các nghĩa vụ và cam kết quốc tế chưa thực sự hiệu quả, đôi khi mang tính hình thức dẫn đến tình trạng hiệu lực và hiệu quả thực thi các nghĩa vụ quốc tế mà Việt Nam đã cam kết chưa cao.
Xu thế các cam kết và nghĩa vụ ngày càng cao, tăng dần theo thời gian trong hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập quốc tế về môi trường nói riêng thực sự tạo nên những áp lực về kinh tế và những thách thức to lớn về nguồn nhân lực cần thiết để thực thi các nghĩa vụ đã cam kết đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Mạng lưới cán bộ tham gia trong các hoạt động về hội nhập quốc tế về môi trường hiện tại vẫn chỉ tập trung ở phạm vi trong nước, chủ yếu trong hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước của Việt Nam. Thực tế chưa có sự tham gia sâu trong hệ thống tổ chức về quản lý và vận hành/điều hành của các khuôn khổ quốc tế, do vậy tầm ảnh hưởng và tính chủ động của Việt Nam trong các khuôn khổ quốc tế liên quan đến môi trường hiện nay vẫn còn khá khiêm tốn.
Những điểm mới căn bản về nội dung hội nhập và hợp tác quốc tế trong Luật BVMT năm2020
Xác định được tầm quan trọng của hội nhập và HTQT về lĩnh vực môi trường đối với sự phát triển của quốc gia, những năm gần đây, các chủ trương, chính sách, pháp luật về hội nhập và HTQT về môi trường đã cơ bản đáp ứng được với xu thế của thế giới và phù hợp với tiến trình phát triển của đất nước. Luật BVMT năm 2020 đã được xây dựng với những thay đổi căn bản về nội dung với nhiều chính sách mới, trong đó nội dung hội nhập và hợp tác quốc tế về BVMT được quy định tại Chương XII (Điều 155 và 156).
Luật BVMT năm 2020 đã khắc phục được những hạn chế đối với nội dung hội nhập và hợp tác quốc tế của Luật BVMT năm 2014. Cụ thể, Luật BVMT năm 2020 đã điều chỉnh, cập nhật bổ sung để phù hợp với bối cảnh, yêu cầu thực tế về công tác quản lý và xu thế hội nhập và HTQT hiện nay. Những điểm mới và thay đổi chính, bao gồm:
Tên gọi của Chương (Hội nhập và HTQT về BVMT), đây là lần đầu tiên thuật ngữ “hội nhập quốc tế” được quy định một cách chính thức vào một luật chuyên ngành nhằm phân biệt rõ hai hoạt động và các quy định liên quan đến hội nhập quốc tế và HTQT.
Đặt ra nguyên tắc nhằm thiết lập khuôn khổ và hành lang pháp lý nhằm định hướng cho công tác hội nhập quốc tế và HTQT như đảm bảo việc “thực hiện trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, tăng cường sức mạnh tổng hợp và nâng cao vị thế, uy tín của quốc gia, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tuân thủ pháp luật của mỗi bên, pháp luật quốc tế và cam kết trong các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế có liên quan đến môi trường”.
Gắn kết hội nhập quốc tế về kinh tế và hội nhập quốc tế về môi trường, trong đó hội nhập quốc tế về môi trường nhằm hướng tới hỗ trợ và thúc đẩy cho quá trình phát triển kinh tế. Đồng thời, đặt ra nguyên tắc xử lý các tranh chấp quốc tế về môi trường sẽ được “giải quyết thông qua các biện pháp hòa bình, theo thông lệ, pháp luật quốc tế và pháp luật của các bên liên quan” nhằm đáp ứng với yêu cầu thực tế về các cam kết có tính ràng buộc pháp lý và áp dụng chế tài đối với những nội dung liên quan đến môi trường trong các FTA.
Quy định về giải quyết tranh chấp đưa ra nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng thông lệ quốc tế nhưng vẫn phải đảm bảo về lợi ích và phù hợp với quy định pháp luật trong nước. Quy định này nhằm tránh rủi ro và bất lợi cho Việt Nam khi tham gia giải quyết tranh chấp về môi trường trong tương lai.
Vai trò, trách nhiệm của Nhà nước, trách nhiệm của tổ chức và cá nhân đối vớicác hoạt động hội nhập quốc tế và HTQT về BVMT được quy định rõ. Tăng cường hội nhập quốc tế nói chung, trong đó có hội nhập quốc tế về lĩnh vực môi trường là chủ trương của Đảng và Nhà nước. Hiện nay, hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế về môi trường đang diễn ra theo hướng sâu rộng, đa dạng về mức độ, nội dung và hình thức, liên quan đến Bộ, ngành và lĩnh vực ở các cấp khác nhau. Luật BVMT năm 2020 đã quy định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý, tổ chức và cá nhân, đồng thời xác định rõ nội dung, phạm vi được phép và được khuyến khích trong các hoạt động hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế.
Nội dung và hình thức, phương thức hợp tác quốc tế không bị hạn chế hoặc quy định cứng, miễn là các hoạt động HTQT về BVMT phù hợp với luật pháp quốc tế và quy định pháp luật trong nước. Mục đích của sự thay đổi và điều chỉnh này nhằm đa dạng hóa nội dung, hình thức và phương thức, khuyến khích sự chủ động và sáng tạo trong hoạt động hợp tác quốc tế. Nói cách khác, các hoạt động hợp tác quốc tế về môi trường sẽ không bị cấm và hạn chế nếu không vi phạm các quy định pháp luật trong nước và quốc tế.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh về ĐDSH của Liên hợp quốc với chủ đề “Hành động khẩn cấp về ĐDSH vì sự phát triển bền vững”
Luật BVMT năm 2020 cũng quy định Bộ TN&MT là cơ quan đầu mối chịutrách nhiệm tổng hợp, báo cáo về hội nhập và hợp tác quốc tế lĩnh vực môi trường. Hiện có khoảng gần 30 điều ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực môi trường. Việc quản lý và thực hiện các điều ước quốc tế được phân công và giao cho các Bộ, ngành khác nhau. Quy định mới giao trách nhiệm đầu mối tổng hợp và báo cáo nhằm đảm tính thống nhất về định hướng và chiến lược lâu dài trong các hoạt động hội nhập và HTQT về BVMT của cả nước nói chung.
Hoàng Xuân Huy
Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ TN&MT
(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 2/2021)