03/01/2023
Năm 2022, Trung tâm Quan trắc môi trường miền Bắc được giao triển khai các chương trình quan trắc và đánh giá chất lượng môi trường Quốc gia, các chương trình quan trắc mang tính liên vùng, liên tỉnh và xuyên biên giới; các chương trình quan trắc tại những điểm nóng, đặc thù và nhạy cảm về môi trường trên phạm vi 28 tỉnh, TP trực thuộc Trung ương gồm: Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang, Hà Giang, Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Thái Nguyên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hưng Yên, Hà Nội, Hà Nam, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh.
1. Hiện trạng chất lượng môi trường không khí
Qua kết quả quan trắc đợt 5 (tháng 7/2022) tại 31 điểm quan trắc thuộc địa bàn các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và một số điểm nóng về ô nhiễm môi trường không khí tại một số khu đô thị, khu công nghiệp (KCN)… trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh cho thấy, chất lượng không khí tương đối tốt, các thông số quan trắc NO2, CO, SO2 bao gồm cả thông số TSP đều thấp, đạt QCVN 05:2013/BTNMT (TB 01h). Riêng tiếng ồn, tiếp tục ghi nhận mức ồn vượt QCVN 26:2010/BTNMT (khung thời gian từ 6-21h) tại một số điểm quan trắc gần trục giao thông lớn, các KCN…
Bảng 1. Tỷ lệ giá trị vượt QCVN 05:2013/BTNMT và QCVN 26:2010/BTNMT
TT |
Thông số |
Đơn vị |
Tổng số giá trị |
Giá trị lớn nhất |
Giá trị vượt QCVN |
Tỷ lệ % |
|
Giá trị QCVN |
Số giá trị vượt |
||||||
1 |
TSP |
µg/m3 |
93 |
289 |
300 |
0 |
0,0% |
2 |
CO |
µg/m3 |
19 |
2.620 |
30.000 |
0 |
0,0% |
3 |
NO2 |
µg/m3 |
93 |
25,3 |
200 |
0 |
0,0% |
4 |
SO2 |
µg/m3 |
93 |
61,6 |
350 |
0 |
0,0% |
5 |
Pb |
µg/m3 |
19 |
0,233 |
1.5 |
0 |
0,0% |
6 |
Tiếng ồn (*) |
dBA |
93 |
74,7 |
70 |
20 |
21,5% |
Ghi chú: (*) - Theo QCVN 26:2010/BTNMT
Kết quả quan trắc phản ánh, giá trị nồng độ bụi TSP có sự khác nhau giữa các khu vực (khu vực xung quanh KCN, trục giao thông cao hơn so với KDC).
Giá trị TSP xung quanh các KCN, dao động từ 215 - 289 µg/m3 và khá tương đồng giữa các địa phương. Toàn bộ giá trị TSP đều đạt QCVN 05:2013/BTNMT (TB 01h) và ít biến động so với cùng kỳ quan trắc tháng 7/2021.
Biểu đồ 1. Diễn biến giá trị TSP tại một số KCN các tỉnh phía Bắc
Tại các nút giao thông, giá trị TSP trung bình đợt 5/2022 dao động từ 146 - 253 µg/m3 và đều đạt QCVN 05:2013/BTNMT (TB 01h). Nhìn chung các tháng đầu năm 2022, chất lượng môi trường không khí khá sạch, cả 5 đợt quan trắc đều ghi nhận giá trị TSP trung bình thấp, đạt quy định.
Biểu đồ 2. Diễn biến giá trị TSP tại một số nút giao thông các tỉnh phía Bắc
Các điểm quan trắc gần khu dân cư (KDC), giá trị TSP trung bình trong đợt 5/2022 dao động trong khoảng 117 - 263 µg/m3 và không có nhiều biến động so với cùng kỳ năm trước. Tương tự như đối với các khu vực khác, đối với các điểm quan trắc gần KDC, liên tục trong cả 5 đợt quan trắc đều ghi nhận giá trị TSP thấp, đạt QCVN 05:2013/BTNMT (TB 01h).
Biểu đồ 3. Diễn biến giá trị TSP tại một số khu dân cư các tỉnh phía Bắc
Các thông số khác (CO, Pb, SO2, NO2), kết quả quan trắc tại các KCN, KDC và nút giao thông trong đợt 5/2022 đều thấp và nằm trong ngưỡng cho phép của QCVN 05:2013/BTNMT (TB 01h).
Kết quả quan trắc tiếng ồn, đợt 5/2022 cho thấy, có 15/31 vị trí có tiếng ồn chạm và vượt giới hạn cho phép theo QCVN 26:2010/BTNMT (70dBA, áp dụng với khung thời gian từ 6-21h), tập trung tại khu vực xung quanh các KCN và trục giao thông.
Biểu đồ 4. Diễn biến giá trị tiếng ồn các tỉnh phía Bắc
2. Hiện trạng chất lượng môi trường nước mặt
Chất lượng môi trường nước trên các lưu vực sông (LVS) khu vực phía Bắc trong đợt 5/2022 (tháng 7/2022) khá tốt. Trong số 185 điểm quan trắc trên 5 LVS, có đến 77% tổng số điểm có giá trị WQI đạt ở mức rất tốt đến tốt, nước sông sử dụng được cho mục đích nuôi trồng thủy sản, tưới tiêu và cấp nước sinh hoạt nhưng cần biện pháp xử lý; có 09% số điểm ở mức trung bình, còn lại 15% số điểm quan trắc ở mức xấu và mức ô nhiễm nặng. So với cùng kỳ năm 2021, môi trường nước trên các LVS phía Bắc được cải thiện hơn (giảm 2,5% số điểm ở mức ô nhiễm nặng). Các điểm nước sông ở mức xấu và mức bị ô nhiễm nặng tiếp tục ghi nhận tại các điểm nóng về ô nhiễm môi trường nước thuộc LVS Nhuệ Đáy và LVS Cầu. Nguyên nhân, do tiếp nhận nước thải sinh hoạt của TP. Hà Nội, TP. Thái Nguyên và nước thải làng nghề trên lưu vực.
Biểu đồ 5. Chất lượng môi trường nước theo chỉ số WQI trên 5 LVS phía Bắc
Chi tiết diễn biến chất lượng nước trên các LVS như sau:
Chất lượng môi trường nước LVS Cầu
Tại thượng nguồn Sông Cầu, đoạn chảy qua Bắc Kạn và Thái Nguyên thời điểm quan trắc đợt 5/2022 (tháng 7/2022), tiếp tục duy trì chất lượng nước sông ở mức tốt như các thời điểm quan trắc đầu năm, nước sông sử dụng được cho mục đích sinh hoạt, nuôi trồng thuỷ sản, tưới tiêu và các mục đích tương đương khác, giá trị WQI dao động từ 81-95. Môi trường nước trên sông Cầu bị suy giảm khi chảy qua Bắc Giang - Bắc Ninh, tại đây chất lượng nước sông thường chỉ ở mức trung bình (WQI:51-75). Tuy nhiên, đến năm 2022, từ đợt 3 (tháng 4/2022) đến đợt 5/2022 (tháng 7/2022), chất lượng nước tại đoạn sông trên đã được cải thiện hơn so với cùng kỳ đợt 5/2021 (tháng 7/2021) và các đợt quan trắc trước đó, một số đoạn nước sông đã có thể sử dụng được cho mục đích nuôi trồng thủy sản, tưới tiêu và các mục đích tương đương khác.
Biểu đồ 6. Diễn biến chất lượng môi trường nước trên sông Cầu
Trên sông Công, sông Nghinh Tường, suối Phượng Hoàng, sông Đu, suối Cam Giá và sông Thương tại Hải Dương, chất lượng nước sông duy trì ở mức trung bình đến mức tốt, giá trị (WQI: 66-95), nước sông sử dụng được cho mục đích nuôi trồng thủy sản, tưới tiêu, cấp nước sinh hoạt cần xử lý và các hoạt động tương đương khác. Nhìn chung chất lượng nước các sông trên ít biến động so với cùng kỳ năm 2021.
Sông Ngũ Huyện Khê, suối Bóng Tối vẫn là các điểm nóng về ô nhiễm môi trường nước trên LVS Cầu. Tuy nhiên, đến thời điểm quan trắc đợt 5/2022 (tháng 7/2022), tại điểm Cầu Đào Xá trên sông Ngũ Huyện Khê, chất lượng nước sông đã được cải thiện so với thời điểm quan trắc đầu năm và so với cùng kỳ quan trắc năm 2021, tại đây môi trường nước sông đã tạm thời thoát khỏi tình trạng bị ô nhiễm nặng, nước sông đã có thể sử dụng được cho giao thông thủy và các mục đích tương đương khác (WQI:36). Riêng tại suối Bóng tối, môi trường nước sông vẫn tiếp tục bị ô nhiễm nặng và chưa có dấu hiệu được kiểm soát, kết quả quan trắc cho giá trị NH4+ (4,65 mg/L) vượt 5,2 lần và giá trị BOD5 (69 mg/L), vượt 4,6 lần so với QCVN 08-MT:2015/BTNMT cột B1. Nguyên nhân do tiếp nhận lượng lớn nước thải sinh hoạt cũng như nước thải làng nghề của Bắc Ninh và TP. Thái Nguyên.
Chất lượng môi trường nước trên LVS Nhuệ, Đáy
LVS Nhuệ, Đáy tiếp tục là một trong số LVS ghi nhận nhiều điểm bị ô nhiễm nặng nhất trong số các LVS thực hiện quan trắc ở khu vực phía Bắc, song đã bắt đầu ghi nhận sự cải thiện chất lượng nước trên sông Nhuệ, đoạn qua TP. Hà Nội ở thời điểm quan trắc đợt 5/2022, cụ thể:
Trên dòng chính sông Nhuệ, thời điểm quan trắc đợt 5/2022, ghi nhận môi trường nước sông cải thiện hơn so với các Đợt quan trắc đầu năm. Trừ đoạn sông từ Cầu Tó đến Cự Đà, nước sỗng vẫn tiếp tục bị ô nhiễm nặng, các điểm quan trắc còn lại đã tạm thời thoát khỏi tình trạng bị ô nhiễm nặng, nước sông đã có thể sử dụng được cho hoạt động giao thông thủy và các hoạt động tương đương khác (WQI:26-50).
Biểu đồ 7. Diễn biến chất lượng môi trường nước trên sông Nhuệ
Trên dòng chính sông Đáy, đoạn chảy qua địa phận TP. Hà Nội, Hà Nam kéo dài đến khu vực Độc Bộ (Ninh Bình) môi trường nước sông ở mức trung bình trên cả tuyến sông (WQI:51-75), thời điểm quan trắc, đoạn sông Đáy qua Hà Nội đã được cải thiện hơn so các đợt quan trắc trước đó, nước sông đã sử dụng được cho mục đích nuôi trồng thủy sản, tưới tiêu, giao thông thủy và các mục đích tương đương khác. Chất lượng môi trường nước sông duy trì mức tốt liên tục trong cả 5 đợt quan trắc năm 2022 ở khu vực cửa sông, từ đoạn Đò Mười về đến cửa Đáy (WQI: 76-92), nước sông sử dụng được cho mục đích nuôi trồng thủy sản, tưới tiêu, sinh hoạt nhưng cần biện pháp xử lý và các mục đích tương đương khác.
Trên sông Hoàng Long (Ninh Bình), sông Đào (Nam Định), chất lượng nước sông tiếp tục duy trì ở mức tốt và không có nhiều thay đổi so với cùng kỳ quan trắc năm 2021, nước sông sử dụng được mục đích cấp nước sinh hoạt cần biện pháp xử lý, nuôi trồng thủy sản và các mục đích tương đương khác (WQI >76).
Chất lượng nước trên sông Châu Giang liên tục trên cả tuyến sông từ Hữu Bị đến Cầu sắt, thường xuyên ở mức kém (WQI:26-30), nước sông chỉ sử dụng được cho mục đích giao thông thủy và các mục đích tương đương khác.
Các sông nội thành của TP. Hà Nội, ô nhiễm vẫn tiếp diễn và chưa có dấu hiệu được cải thiện (WQI: 12-16), phản ánh nước sông bị ô nhiễm nặng, cần các biện pháp xử lý.
Biểu đồ 8. Giá trị WQI trên các sông nội thành Hà Nội
Chất lượng môi trường nước LVS Hồng - Thái Bình, Đà
Chất lượng nước LVS Hồng - Thái Bình, Đà duy trì mức tốt liên tục trong cả 05 Đợt quan trắc, nước sông sử dụng tốt cho mục đích cấp nước sinh hoạt, nuôi trồng thủy sản, tưới tiêu và các mục đích tương đương khác (WQI: 76-98) và ít biến động so cùng kỳ quan trắc tháng 7/2021.
Trên các phụ lưu (sông Đà, sông Lô, sông Thái Bình), môi trường nước sông rất tốt, chưa có dấu hiệu bị ô nhiễm và ít biến động qua các đợt quan trắc (WQI: 93-97), nước sông sử dụng tốt cho mục đích cấp nước sinh hoạt.
Chất lượng môi trường nước LVS Mã - Chu
Chất lượng nước sông Mã thời điểm quan trắc Đợt 5/2022 (tháng 7/2022) đạt ở mức tốt và khá đồng đều trên cả lưu vực sông (WQI: 84-97), nước sông sử dụng được cho mục đích cấp nước sinh hoạt nhưng cần biện pháp xử lý, nuôi trồng thủy sản, tưới tiêu và các mục đích tương đương khác. Kết quả quan trắc cho thấy, chất lượng nước sông các đợt 4, đợt 5/2022 được cải thiện hơn so với các đợt quan trắc trước đó.
Chất lượng môi trường nước sông Lam, sông La
Trên sông Lam và các phụ lưu, phần lớn các điểm quan trắc đợt 5/2022 (tháng 7/2022) đạt ở mức tốt đến rất tốt, nước sông sử dụng được cho mục đích cấp nước sinh hoạt cần biện pháp xử lý, nuôi trồng thủy sản và các mục đích tương đương khác. Tương tự các LVS khác, chất lượng nước trên sông Lam, sông La các đợt quan trắc gần đây được cải thiện hơn so với các đợt quan trắc đầu năm.
Trên sông La và các phụ lưu, nước sông tiếp tục duy trì ở mức tốt trong cả 5 đợt quan trắc, nước sông sử dụng cho mục đích cấp nước sinh hoạt nhưng cần các biện pháp xử lý phù hợp, nuôi trồng thủy sản và các mục đích tương đương khác
3. Kết luận
Môi trường không khí: Đợt 5/2022 (tháng 7/2022) cho thấy, chất lượng môi trường không khí các địa phương miền Bắc tiếp tục được cải thiện so với cùng kỳ quan trắc năm 2021. Các thông số bao gồm cả TSP, NO2, CO, SO2, Pb nằm trong giới hạn cho phép theo QCVN 05:2013/BTNMT (TB 01h).
Chất lượng môi trường nước: Trên các LVS Hồng - Thái Bình, Đà; LVS Mã - Chu và LVS Cả - La (Sông Lam, sông La) duy trì ở mức tốt trong cả 5 đợt quan trắc. So với cùng kỳ quan trắc đợt 5/2021, môi trường nước trên các LVS phía Bắc được cải thiện hơn. Nước sông sử dụng tốt cho mục đích cấp nước sinh hoạt, nuôi trồng thủy sản, tưới tiêu và các mục đích tương đương khác.
Kết quả quan trắc đợt 5/2022 (tháng 7/2022) cũng đã ghi nhận môi trường nước sông được cải thiện tại một số điểm nóng về môi trường, điển hình trên sông Ngũ Huyện Khê (điểm cầu Đào Xá), trên sông Nhuệ, đoạn qua Hà Nội, chất lượng môi trường nước sông đã được cải thiện so với cùng kỳ quan trắc năm 2021 và so với các đợt quan trắc đầu năm 2022, nước sông đã tạm thời thoát khỏi tình trạng bị ô nhiễm nặng. Các điểm nóng về ô nhiễm môi trường nước khác như: suối Bóng Tối thuộc LVS Cầu; các sông nội thành thuộc LVS Nhuệ, Đáy tiếp tục bị ô nhiễm nặng (các thông số ô nhiễm gồm COD, BOD5, NH4+ và TSS) và chưa có dấu hiệu được cải thiện.
ThS. Nguyễn Gia Cường, ThS. Phạm Thị Thùy
Trung tâm Quan trắc môi trường miền Bắc, Tổng cục Môi trường
(Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 12/2022)