03/04/2020
Sau gần 30 năm xây dựng và phát triển, cả nước đã hình thành 375 khu công nghiệp (KCN) với tổng diện tích khoảng 97,8 nghìn ha. Trong đó có 280 KCN đã đi vào hoạt động, thu hút 9.114 dự án trong nước, 9.022 dự án FDI, với tổng số vốn đầu tư đăng ký khoảng 2 triệu tỷ đồng và 183,2 tỷ USD. Các KCN đã đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH) của đất nước, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hiện nay, nhiều KCN đã có hệ thống thu gom, xử lý nước thải (XLNT) tập trung, góp phần giảm nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.
Ban hành các chính sách, pháp luật về BVMT đối với KCN
Hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến công tác BVMT nói chung và BVMT trong các KCN từng bước được hoàn thiện, đồng bộ và thống nhất, trong đó có một số văn bản quan trọng: Luật BVMT năm 2014 là cơ sở, nền tảng pháp lý về BVMT trong mọi hoạt động KT - XH; Luật Xây dựng năm 2014; Luật Đầu tư công năm 2019; Luật Đầu tư năm 2014; Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015; Luật Tài nguyên nước 2012...
Tính đến tháng 2/2020, Chính phủ đã ban hành 14 Nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành 17 Quyết định, Bộ TN&MT và các Bộ, ngành liên quan ban hành 54 Thông tư, Thông tư liên tịch, 48 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường (QCVN) là công cụ để quản lý và kiểm soát ô nhiễm KCN, bao gồm: Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ về quản lý KCN, khu kinh tế (KKT); Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định về quy hoạch BVMT, đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC), đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và kế hoạch BVMT; Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu; Nghị định số 80/2014/NĐ-CP ngày 6/8/2014 của Chính phủ về thoát nước và XLNT; Nghị định số 40/2019/NĐ-CP ngày 13/5/2019 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật BVMT, Thông tư số 35/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015 của Bộ trưởng Bộ TN&MT về BVMT KKT, KCN, khu chế xuất, khu công nghệ cao; Thông tư số 25/2019/TT-BTNMT ngày 31/12/2019 của Bộ trưởng Bộ TN&MT quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 40/2019/NĐ-CP ngày 13/5/2019 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật BVMT và quy định quản lý hoạt động dịch vụ quan trắc môi trường.
Bên cạnh đó, chính quyền các địa phương cũng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về BVMT KCN. Trong đó có 11 văn bản của Tỉnh ủy, 51 Nghị quyết của HĐND tỉnh/thành phố (TP), 212 Quyết định và 42 Chương trình, Kế hoạch của UBND các tỉnh/TP trực thuộc Trung ương. Đến nay, trên cả nước có 29 địa phương ban hành cơ chế phối hợp trong công tác quản lý nhà nước đối với KKT, KCN, 8 quy chuẩn địa phương (TP. Hà Nội có 5 quy chuẩn; Hưng Yên: 2; Bắc Ninh: 1) và một số địa phương đang trong quá trình xây dựng.
Việc thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong công tác BVMT đã thực hiện theo hướng đồng bộ và toàn diện, đồng thời tiệm cận với các thông lệ, hiệp ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, góp phần thu hút đầu tư vào các KCN.
Tăng cường công tác quản lý môi trường đối với các KCN
Tình hình thực hiện các quy định pháp luật về BVMT và đầu tư tài chính cho công tác BVMT
Thời gian qua, công tác BVMT trong KCN đã từng bước được các cấp, ngành, doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng KCN quan tâm, chú trọng. Các KCN đã góp phần hạn chế việc phân tán cơ sở sản xuất công nghiệp, di dời cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường từ nội đô, làng nghề vào KCN. Do đó, công tác BVMT được kiểm soát chặt chẽ, đặc biệt đối với việc XLNT, chất thải rắn (CTR), khí thải. Trong số 280 KCN đang hoạt động (20 KCN nằm trong KKT), có 250 KCN có hệ thống XLNT tập trung theo quy định, đạt tỷ lệ 89,28%. 100% KCN có báo cáo ĐTM và Đề án BVMT chi tiết được phê duyệt; 219 KCN đã lắp đặt hệ thống quan trắc nước thải tự động, liên tục, đạt tỷ lệ 87,6%. Tổng công suất XLNT của các nhà máy XLNT tập trung đạt 1.031.000 m3/ngày, đêm, lượng nước thải phát sinh thực tế khoảng 510.145 m3/ngày, đêm.
Theo số liệu thống kê, hàng năm, các KCN đang hoạt động phát sinh 643.865 tấn chất thải nguy hại, 4.124.372 tấn CTR thông thường. Các KCN đã quan tâm đến việc hướng dẫn, yêu cầu doanh nghiệp thứ cấp quản lý CTR, đảm bảo chất thải được thu gom, bàn giao cho các đơn vị có chức năng xử lý. Trong khi đó, việc xử lý khí thải do các doanh nghiệp thứ cấp trong KCN tự thực hiện. Tuy nhiên, các KCN thường xuyên phải thực hiện giám sát định kì chất lượng môi trường không khí trong KCN.
Với định hướng chỉ đạo của Chính phủ trong phát triển KCN sinh thái, đã được thể chế hóa tại Nghị định số 82/NĐ-CP, một số KCN thí điểm chuyển sang mô hình KCN sinh thái theo tiêu chuẩn quốc tế, thu hút dự án sản xuất công nghiệp và dịch vụ công nghiệp công nghệ cao, xanh, sạch; gắn kết hoạt động với BVMT. Hiện cả nước có 4 KCN thí điểm, gồm Khánh Phú, Gián Khẩu (Ninh Bình); Hòa Khánh (Đà Nẵng); Trà Nóc (Cần Thơ). Tại các KCN trên, doanh nghiệp đã tham gia vào sản xuất sạch hơn, sử dụng hiệu quả tài nguyên, thực hiện hoạt động cộng sinh công nghiệp, đem lại hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường, góp phần giảm phát thải.
Nhìn chung, các KCN đang hoạt động đã tuân thủ quy định pháp luật về BVMT, quan tâm đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật BVMT như hệ thống thoát nước mưa, XLNT tập trung, hệ thống quan trắc nước thải tự động và các công trình hạ tầng kỹ thuật BVMT khác. Hơn nữa, các KCN đang từng bước chuyển đổi mô hình phát triển theo hướng cân bằng kinh tế, xã hội và môi trường, đảm bảo sự phát triển bền vững, hướng tới nền kinh tế tuần hoàn và thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh.
Mặc dù, ngân sách nhà nước (NSNN) còn nhiều khó khăn, nhưng phần lớn các địa phương đều đã quan tâm đầu tư cho công tác BVMT, cơ bản bố trí đủ, hoặc vượt 1% tổng chi ngân sách địa phương cho công tác BVMT nói chung, trong đó có các KCN. Đối với nguồn vốn đầu tư phát triển từ NSNN, trong giai đoạn 2015 - 2018, đã có 44 công trình, dự án nhà máy XLNT và các hạng mục liên quan đến nhà máy XLNT KCN được hỗ trợ vốn từ quỹ đầu tư phát triển là 974,404 tỷ đồng. Trung bình khoảng 75% số phí BVMT đối với nước thải công nghiệp được nộp vào ngân sách địa phương để sử dụng cho công tác BVMT; bổ sung nguồn vốn hoạt động cho Quỹ BVMT địa phương để sử dụng phòng ngừa, hạn chế, kiểm soát ô nhiễm môi trường do nước thải; tổ chức thực hiện các giải pháp, phương án công nghệ, kỹ thuật XLNT.
Ngoài ra, thực hiện Nghị quyết 73/NQ-CP ngày 26/8/2016 của Chính phủ về phê duyệt chủ trương đầu tư các Chương trình mục tiêu giai đoạn 2016 -2020, trong đó có Chương trình mục tiêu đầu tư hạ tầng KKT ven biển, KKT cửa khẩu, KCN, khu công nghệ cao. Trong giai đoạn 2016 - 2020, ngân sách Trung ương (NSTW) hỗ trợ cho 20 dự án xây dựng nhà máy XLNT tập trung trong các KCN và các hạng mục liên quan đến XLNT tại 17 địa phương, với 1.300,665 tỷ đồng.
Bên cạnh đó còn nhiều nguồn vốn khác tài trợ cho công tác BVMT như nguồn vốn ODA; từ Quỹ BVMT Việt Nam và các doanh nghiệp cũng tích cực huy động nguồn vốn tự có, vốn vay từ các ngân hàng thương mại để đầu tư công trình BVMT.
Tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực quản lý BVMT và đẩy mạnh kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về BVMT đối với KCN
Tổ chức bộ máy quản lý BVMT tại KCN ở các địa phương cơ bản đã được hình thành và phân cấp thực hiện chức năng quản lý theo thẩm quyền. Ban Quản lý (BQL) KCN có chức năng quản lý nhà nước trực tiếp đối với KCN; quản lý và tổ chức thực hiện chức năng cung ứng dịch vụ hành chính công, dịch vụ hỗ trợ khác liên quan đến hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh cho nhà đầu tư thứ cấp trong KCN. BQL KCN có thẩm quyền trực tiếp quản lý về đầu tư, quản lý KCN theo hướng dẫn của các Bộ và theo sự ủy quyền của các cơ quan có thẩm quyền trên một số lĩnh vực: Thương mại, xây dựng, lao động. Các BQL KCN đều bố trí nhân sự làm công tác BVMT. Trên cả nước hiện có 258 công chức, viên chức làm công tác BVMT tại các BQL KCN. Nhiều địa phương có Quy chế phối hợp giữa BQL KCN và các ngành chức năng có liên quan trong công tác quản lý nhà nước về môi trường. Về cơ bản, các BQL KCN đã cố gắng trong thực thi nhiệm vụ của mình, trong đó có công tác BVMT tại các KCN.
Các doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng KCN đều có bộ phận phụ trách về môi trường, hoặc bố trí cán bộ chuyên trách có chuyên môn phù hợp để quản lý, vận hành hệ thống xử lý chất thải, kiểm soát môi trường. Các doanh nghiệp đầu tư thứ cấp trong KCN có bộ phận chuyên môn, hoặc nhân sự có chuyên môn phù hợp phụ trách về BVMT tùy theo quy mô hoạt động và các vấn đề môi trường phát sinh. Các doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng KCN và doanh nghiệp đầu tư thứ cấp trong KCN thực hiện theo sự quản lý và hướng dẫn của BQL KCN và Sở TN&MT địa phương.
Hệ thống XLNT của KCN Hòa Khánh (Đà Nẵng) - một trong các KCN đang thí điểm chuyển sang mô hình KCN sinh thái
Để tăng cường công tác kiểm soát môi trường tại các KCN trên cả nước, công tác thanh tra, kiểm tra được xem là công cục đắc lực trong công tác quản lý nhà nước về môi trường. Theo đó, trong giai đoạn 2015 - 2019, các Bộ và UBND các tỉnh/TP đã xử lý vi phạm pháp luật về BVMT đối với 4.614 lượt cơ sở, trong đó có các KCN, cơ sở trong KCN, với tổng số tiền 300.970 triệu đồng. Kết quả thanh tra, kiểm tra cho thấy, các vi phạm chủ yếu tập trung vào các hành vi không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nội dung báo cáo ĐTM, cam kết BVMT đã được phê duyệt; xả chất thải vượt QCKT về môi trường; thiếu báo cáo giám sát chất thải định kỳ; lưu giữ và chuyển giao chất thải không đúng quy định; một số cơ sở thứ cấp xả nước thải vượt tiêu chuẩn tiếp nhận của chủ đầu tư KCN...
Những bất cập, tồn tại trong xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về BVMT tại các KCN
Bên cạnh những kết quả trên, công tác quản lý môi trường đối với các KCN cũng bộc lộ một số bất cập, tồn tại như: Công tác BVMT trong KCN chịu sự chi phối của nhiều luật liên quan, dẫn đến sự thiếu đồng bộ, thống nhất trong quá trình triển khai thực hiện, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước; Các loại thuế, phí về môi trường chưa phát huy được vai trò công cụ kinh tế; chưa tạo hành lang pháp lý và môi trường thuận lợi để khuyến khích phát triển dịch vụ môi trường, sản phẩm thân thiện với môi trường; Việc phân loại, tái chế, tái sử dụng chất thải, tiến tới mô hình KCN không phát thải, cũng như phát triển KCN sinh thái, hoặc khuyến khích xã hội hóa trong một số hoạt động BVMT KCN chậm triển khai trong thực tế. Công tác lập, triển khai quy hoạch KCN chưa phù hợp, gây áp lực cho công tác BVMT. Đặc biệt, nhận thức của chính quyền địa phương, BQL KCN, doanh nghiệp về công tác BVMT tại các KCN hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Tại các địa phương, có 65% KCN đã đi vào hoạt động, nhưng chưa được cấp giấy xác nhận hoàn thành công trình BVMT; một số doanh nghiệp đầu tư thứ cấp trong các KCN chưa hoàn thiện hồ sơ, thủ tục pháp lý về BVMT. Đến nay, 10,7% KCN trên cả nước đã đi vào hoạt động, thu hút đầu tư, nhưng chưa xây dựng hệ thống XLNT tập trung; việc đấu nối, thu gom, XLNT, thoát nước mưa tại một số KCN khó kiểm soát; chất lượng nước thải không ổn định, có thời điểm không đạt quy chuẩn xả thải. Tại một số KCN, hệ thống XLNT tập trung vận hành chưa hiệu quả, mạng lưới thu gom và hệ thống thoát nước mưa, nước thải, XLNT chưa được duy tu, bảo dưỡng định kỳ; nhiều KCN chưa có công trình phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường theo quy định của Nghị định số 40/2019/NĐ-CP và Thông tư số 25/2019/TT-BTNMT. Nhiều KCN dù đã xây dựng hệ thống XLNT tập trung, nhưng lượng nước thải thu gom quá ít, không đủ để vận hành thường xuyên; công tác dự báo phát sinh nước thải, xây dựng hệ thống XLNT chưa sát với tình hình thực tế, gây lãng phí nguồn lực đầu tư.
Bên cạnh đó, việc quản lý khí thải tại KCN còn nhiều bất cập. Một số doanh nghiệp đầu tư thứ cấp sử dụng công nghệ cũ, nguy cơ gây ô nhiễm không khí cao. Một số địa phương chưa quy hoạch địa điểm lưu giữ, xử lý chất thải nguy hại; công tác theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thu gom, xử lý chất thải còn hạn chế, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Qua thanh tra, kiểm tra cho thấy, còn 12,4% số KCN chưa đầu tư lắp đặt hệ thống quan trắc môi trường tự động, liên tục và truyền dữ liệu về Sở TN&MT; một số KCN đã đầu tư hệ thống quan trắc, nhưng chưa truyền dữ liệu về Sở TN&MT theo quy định. Hệ thống quan trắc tự động, liên tục của các cơ sở thiếu tính ổn định, chế độ duy tu, bảo dưỡng chưa thường xuyên.
Tại một số địa phương, công tác kiểm tra, thanh tra việc chấp hành quy định pháp luật về BVMT chưa được thực hiện thường xuyên và chưa có giải pháp hữu hiệu trong xử lý điểm nóng về ô nhiễm môi trường. Một số cơ sở sản xuất chưa thực hiện nghiêm túc kết luận thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền, chậm khắc phục hậu quả.
Trong khi đó, đầu mối quản lý về môi trường KCN ở một số địa phương còn phân tán, không thống nhất về việc giao thẩm quyền cho BQL KCN và Sở TN&MT. Nhiều địa phương chưa xây dựng, ban hành Quy chế phối hợp giữa BQL KCN với các ngành chức năng liên quan trong công tác quản lý nhà nước về môi trường, hoặc đã ban hành, nhưng Quy chế không bảo đảm sự phối hợp, quản lý tốt giữa doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng KCN với doanh nghiệp đầu tư thứ cấp trong công tác BVMT. Nhân lực làm công tác quản lý về BVMT ở các BQL KCN doanh nghiệp đầu tư thứ cấp trong KCN còn thiếu, chưa bố trí đủ biên chế theo quy định…;
Nguồn lực tài chính đầu tư cho công tác BVMT nói chung và đầu tư cho BVMT các KCN nói riêng còn hạn chế. Chi sự nghiệp BVMT Trung ương bố trí không lớn, nhưng kết quả giải ngân vốn thấp; còn không ít địa phương bố trí chi sự nghiệp BVMT không đạt tỷ lệ theo quy định. Trong khi vẫn chưa có quy định tỷ lệ chi từ nguồn thu thuế BVMT được sử dụng để đầu tư trực tiếp cho công tác BVMT, quy định về sử dụng nguồn vốn dự phòng từ NSTW ưu tiên bố trí cho các chương trình, dự án BVMT các KCN. Việc đầu tư xây dựng các KCN tại một số địa phương còn bất cập, năng lực tài chính xây dựng kết cấu hạ tầng hạn chế, chưa ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật BVMT. Một số BQL KCN chỉ tập trung thu hút đầu tư, chưa quan tâm đúng mức đến công tác BVMT của KCN. Một số chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN, hoặc nhà đầu tư thứ cấp chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm BVMT theo quy định pháp luật; nhiều cơ sở chưa kịp thời cập nhật các quy định pháp luật về BVMT.
Một số giải pháp tăng cường công tác BVMT tại các KCN
Để nâng cao hiệu quả quản lý môi trường đối với các KCN, thời gian tới, cần tập trung vào các giải pháp sau:
Hoàn thiện chính sách, pháp luật về BVMT
Bộ TN&MT hoàn thiện Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BVMT năm 2014. Trong đó quan tâm sửa đổi, bổ sung một số nhóm cơ chế, chính sách: Quy hoạch BVMT, trong đó tính đến yếu tố BVMT KCN; Khuyến khích doanh nghiệp thực hiện sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, tuần hoàn tái sử dụng nước thải, không thải chất thải ra môi trường; Rà soát, điều chỉnh, hoặc ban hành các QCKT về môi trường phù hợp với thực tiễn, tăng cường hướng dẫn, chỉ đạo xây dựng QCKT môi trường địa phương; Xây dựng hệ thống tiêu chí về môi trường phục vụ lựa chọn loại hình, công nghệ sản xuất, bảo đảm giảm thiểu nguy cơ gây ô nhiễm môi trường; hỗ trợ chuyển đổi KCN hiện hữu sang KCN sinh thái và phát triển các KCN sinh thái mới; Kiểm toán chất thải, xây dựng cơ sở dữ liệu để tích hợp hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin quốc gia, tiến tới xây dựng nền kinh tế tuần hoàn; Rà soát, đánh giá, điều chỉnh công cụ kinh tế, thuế, phí về môi trường đang áp dụng cho phù hợp với nguyên tắc thị trường; Xây dựng cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy xã hội hóa công tác BVMT, huy động nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng BVMT, hiện đại hóa công nghệ sản xuất, cộng sinh công nghiệp...
Bên cạnh đó, các Bộ, ngành liên quan cần thực hiện rà soát, sửa đổi một số luật có liên quan như Luật Xử phạt vi phạm hành chính, Luật Thanh tra, Luật Tài nguyên nước, Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật Thuế BVMT, Luật Đầu tư... để phát huy hiệu lực, hiệu quả của các quy định trong Luật BVMT. Cụ thể như áp dụng các biện pháp xử lý bổ sung, chế tài nghiêm khắc hơn đối với các hành vi vi phạm pháp luật về BVMT; trình tự thủ tục tiến hành các cuộc thanh tra, kiểm tra đột xuất về BVMT; quy định tỷ lệ chi từ nguồn thu thuế BVMT được sử dụng để đầu tư trực tiếp cho công tác BVMT; cho phép sử dụng nguồn vốn dự phòng từ NSTW ưu tiên bố trí cho các chương trình, dự án quan trắc phục vụ kiểm soát, giám sát BVMT các KCN; chính sách hỗ trợ từ NSTW đối với các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN tại các địa phương có điều kiện KT - XH khó khăn và đặc biệt khó khăn; rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển các KCN trong phạm vi cả nước bảo đảm yêu cầu BVMT gắn với mục đích sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả; rà soát, sửa đổi, bổ sung, quy định rõ trách nhiệm của BQL KCN.
Tổ chức triển khai công tác BVMT trong thời gian tới
Ngoài việc hoàn thiện các chính sách, pháp luật về BVMT, Bộ TN&MT, cũng như các địa phương tập trung vào những nhiệm vụ sau: Một là, khẩn trương tổ chức lập quy hoạch BVMT cho giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và các quy hoạch cấp tỉnh, bao gồm quy hoạch phát triển các KCN, quy hoạch chung xây dựng KCN, thoát nước KCN để bảo đảm phát triển các KCN đồng bộ, phù hợp với quy hoạch phát triển KT - XH; thường xuyên rà soát, đánh giá tổng thể tình trạng thu gom, XLNT tại các KCN trên cả nước. Khẩn trương tiến hành các thủ tục môi trường của KCN; đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, xác nhận hoàn thành công trình BVMT của các KCN đã đi vào hoạt động. Tăng cường quan trắc môi trường, cảnh báo ô nhiễm môi trường tại các khu vực tập trung nhiều KCN. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm; sớm khắc phục tình trạng vi phạm. Áp dụng chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với KCN không tuân thủ quy định về BVMT.
Hai là, bảo đảm việc thành lập và phát triển KCN tuân thủ đúng với quy hoạch đã được cấp thẩm quyền phê duyệt; kiên quyết không cho mở rộng KCN hiện có, hoặc đầu tư thêm các KCN mới tại địa phương khi còn KCN có tỷ lệ lấp đầy thấp; không cấp giấy phép đầu tư cho các dự án thứ cấp khi KCN chưa có hạ tầng kỹ thuật về BVMT; kiểm soát chặt chẽ việc thu hút các loại hình sản xuất đầu tư trong KCN trên địa bàn.
Ba là, cân đối nguồn lực để hỗ trợ nhà đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài KCN; có chính sách khuyến khích nhà đầu tư và huy động các nguồn vốn hợp pháp khác để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN trong đó có hệ thống XLNT tập trung. Tăng cường nguồn vốn hoạt động cho Quỹ BVMT Việt Nam theo hướng đầu tư, xây dựng công trình BVMT KCN tại địa phương có điều kiện KT - XH đặc biệt khó khăn. Tổ chức thực hiện chính sách phát triển KCN sinh thái tại địa phương. Giám sát chặt chẽ việc phát sinh chất thải từ các KCN và các nguồn thải có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao từ các KCN.
Bốn là, hướng dẫn, yêu cầu chủ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN trong việc tuân thủ và thực hiện đầy đủ các biện pháp, cam kết về BVMT; đầu tư xây dựng, vận hành, duy tu, bảo dưỡng các công trình BVMT của KCN; xây dựng bộ máy, bố trí đủ nhân lực có trình độ chuyên môn về BVMT để quản lý công tác BVMT, cũng như vận hành, giám sát các công trình xử lý môi trường của KCN. Chủ động áp dụng sáng kiến, cải tiến kỹ thuật và đổi mới công nghệ để bảo đảm nâng cao hiệu quả công tác BVMT. Tăng cường áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến để kiểm soát, giám sát hoạt động xả thải của các doanh nghiệp thứ cấp trong KCN, đặc biệt là nước thải công nghiệp trước khi đưa vào hệ thống XLNT tập trung của KCN. Xây dựng kế hoạch cụ thể về phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường của cơ sở; thường xuyên tổ chức diễn tập, ứng phó theo các kịch bản sự cố và báo cáo công tác BVMT theo đúng quy định. Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ về chuyên môn kỹ thuật, cũng như tăng cường phổ biến, nâng cao hiểu biết về các quy định pháp luật, tiêu chuẩn, QCKT về BVMT cho cán bộ, nhân viên, người lao động.
Năm là, tăng cường hợp tác trong nước, quốc tế nhằm trao đổi kinh nghiệm và nắm bắt xu thế hoạt động phát triển của các mô hình KCN; huy động các nguồn vốn đầu tư, vốn viện trợ quốc tế để thực hiện các giải pháp phát triển bền vững KCN, trong đó tập trung nhân rộng mô hình KCN sinh thái.
Sáu là, tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BVMT; áp dụng các biện pháp đủ mạnh để răn đe, ngăn chặn, hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật về BVMT đối với KCN; có các giải pháp huy động sự tham gia của cộng đồng vào công tác BVMT và khuyến khích xã hội hóa hoạt động BVMT.
TS. Trần Văn Minh - Phó Chủ nhiệm
Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội
TS. Hoàng Văn Thức - Phó Tổng cục trưởng
ThS. Nguyễn Thượng Hiền - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường
TS. Nguyễn Phạm Hà - Phó Vụ trưởng
TS. Nguyễn Thị Hồng Liễu
Vụ Quản lý chất thải
(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 3/2020)