Banner trang chủ

Đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm tại Việt Nam

08/03/2019

     Ngày 22/1/2019, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2019/NĐ-CP về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (Nghị định số 06/2019/NĐ-CP). Nghị định được ban hành nhằm đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ không chỉ với pháp luật Việt Nam về bảo vệ và phát triển rừng, đa dạng sinh học, mà còn phù hợp với những quy định của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES) mà Việt Nam là thành viên.

     Nghị định số 06/2019/NĐ-CP quy định Danh mục các loài thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm; chế độ quản lý, bảo vệ, trình tự, thủ tục khai thác các loài thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm; nuôi động vật rừng thông thường; thực thi Công ước CITES tại Việt Nam. Nghị định áp dụng đối với cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước; người Việt Nam định cư ở nước ngoài và tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động liên quan đến thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp thuộc các Phụ lục CITES; nuôi động vật rừng thông thường trên lãnh thổ Việt Nam.

     Danh mục, chế độ quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm; Nuôi động vật thông thường

     Nghị định quy định, Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm gồm: Nhóm I là các loài thực vật rừng, động vật rừng đang bị đe dọa tuyệt chủng nghiêm cấm khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại và các loài thuộc Phụ lục I CITES phân bố tự nhiên tại Việt Nam (Nhóm IA: Các loài thực vật rừng; Nhóm IB: Các loài động vật rừng); Nhóm II là các loài thực vật rừng, động vật rừng chưa bị đe dọa tuyệt chủng, nhưng có nguy cơ bị đe dọa nếu không được quản lý chặt chẽ, hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại và các loài thuộc Phụ lục II CITES có phân bố tự nhiên tại Việt Nam (Nhóm IIA: Các loài thực vật rừng; Nhóm IIB: Các loài động vật rừng).

     Đối với việc bảo vệ thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm, hoạt động săn, bắn, bắt, khai thác, nuôi, nhốt, giết, tàng trữ, chế biến, vận chuyển, buôn bán các loài thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm không được ảnh hưởng tiêu cực đến sự tồn tại, sinh trưởng, phát triển của loài đó trong tự nhiên. Mọi hoạt động săn, bắn, bắt, khai thác, nuôi, nhốt, giết, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán, chế biến, quảng cáo, trưng bày, xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập mẫu vật các loài thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm phải được quản lý, đảm bảo nguồn gốc hợp pháp. Khu vực sinh cảnh sống thường xuyên, tập trung của các loài thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm được nghiên cứu làm cơ sở để thành lập các khu rừng đặc dụng. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có hoạt động sản xuất, xây dựng công trình, điều tra, thăm dò, nghiên cứu, tham quan, du lịch và các hoạt động khác trong các diện tích rừng có thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm phải thực hiện các quy định tại Nghị định và quy định pháp luật khác có liên quan.

     Các hoạt động nghiên cứu khoa học về bảo tồn, phát triển bền vững các loài thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm phải được thực hiện theo đúng đề tài, dự án đã được phê duyệt và tuân thủ Quy chế quản lý rừng. Trước khi thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học phải báo cáo bằng văn bản với chủ rừng và cơ quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp cấp tỉnh để giám sát quá trình thực hiện.

     Tổ chức, cá nhân nuôi động vật rừng thông thường phải đảm bảo các điều kiện: Đảm bảo nguồn gốc động vật rừng nuôi hợp pháp theo quy định pháp luật; Đảm bảo an toàn cho con người; Thực hiện các quy định pháp luật về môi trường, thú y; Thực hiện việc ghi chép sổ theo dõi vật nuôi quy định; Trong thời hạn tối đa 3 ngày làm việc, kể từ ngày đưa động vật rừng thông thường về cơ sở nuôi, tổ chức, cá nhân phải gửi thông báo cho cơ quan Kiểm lâm sở tại để theo dõi, quản lý theo quy định của pháp luật.

 

Nhân viên cứu hộ Vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà (Lâm Đồng) thả vượn má vàng về rừng

 

     Ngoài ra, Nghị định cũng quy định rõ việc xử lý trường hợp động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm xâm hại, hoặc đe dọa tính mạng, tài sản của con người. Trong trường hợp động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm đe dọa xâm hại nghiêm trọng tài sản hoặc tính mạng con người; tổ chức, cá nhân phải áp dụng các biện pháp xua đuổi, hạn chế gây tổn thương đến động vật, đồng thời thông tin ngay với cơ quan Kiểm lâm, hoặc UBND cấp xã; hoặc cấp huyện nơi gần nhất. Trường hợp động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm đe dọa tấn công trực tiếp đến tính mạng con người ở ngoài các khu rừng đặc dụng, phòng hộ, sau khi đã áp dụng các biện pháp xua đuổi, nhưng không có hiệu quả, Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định và chỉ đạo việc bẫy, bắt, bắn cá thể động vật đó.

     Thực thi CITES tại Việt Nam

     Theo Nghị định, việc khai thác từ tự nhiên mẫu vật thuộc Phụ lục I Công ước CITES được thực hiện trong các trường hợp: Phục vụ các dự án, đề tài nghiên cứu khoa học; Tạo nguồn giống gốc phục vụ nuôi sinh sản, trồng cấy nhân tạo; Phục vụ công tác đối ngoại theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Khai thác từ tự nhiên mẫu vật thuộc Phụ lục II Công ước CITES trong các trường hợp: Phục vụ các dự án, đề tài nghiên cứu khoa học; Tạo nguồn giống gốc phục vụ nuôi sinh sản, trồng cấy nhân tạo; Phục vụ công tác đối ngoại theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Phục vụ thương mại bền vững theo quy định pháp luật.

     Các tổ chức, cá nhân khai thác phải có phương án khai thác theo Mẫu số 01 và Mẫu số 02 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định. Trước khi thực hiện hoạt động khai thác phải thông báo cơ quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp hoặc thủy sản cấp tỉnh để giám sát thực hiện; đảm bảo việc khai thác không ảnh hưởng tiêu cực đến công tác bảo tồn và phát triển bền vững của quần thể; thực hiện đúng các quy định pháp luật Việt Nam và Công ước CITES về khai thác mẫu vật các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp.

     Cơ quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp cấp tỉnh có trách nhiệm kiểm tra, giám sát hoạt động khai thác, nguồn gốc mẫu vật các loài động vật, thực vật rừng hoang dã thuộc Phụ lục I, II của Công ước CITES trên địa bàn. Cơ quan quản lý nhà nước về thủy sản cấp tỉnh có trách nhiệm kiểm tra, giám sát hoạt động khai thác, nguồn gốc mẫu vật các loài thủy sản thuộc Phụ lục I, II của Công ước CITES trên địa bàn.

     Đối với việc nuôi, trồng các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp thuộc Phụ lục Công ước CITES không vì mục đích thương mại phải đảm bảo các điều kiện: Có dự án, đề tài nghiên cứu khoa học được phê duyệt và phương án nuôi, trồng theo các Mẫu: 04, 05, 06 và 07 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định; Cơ sở nuôi, trồng phù hợp với đặc tính sinh trưởng của loài được nuôi, trồng; đảm bảo an toàn cho người và vật nuôi, trồng, vệ sinh môi trường, phòng ngừa dịch bệnh; Đảm bảo nguồn giống hợp pháp (Khai thác hợp pháp; mẫu vật sau xử lý tịch thu theo quy định của pháp luật; nhập khẩu hợp pháp, hoặc mẫu vật từ cơ sở nuôi, trồng hợp pháp khác); Trong quá trình nuôi, trồng phải lập sổ theo dõi nuôi, trồng theo Mẫu số 16, Mẫu số 17 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định; đồng thời định kỳ báo cáo và chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước về thủy sản, lâm nghiệp cấp tỉnh.

     Đối với việc nuôi, trồng các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp thuộc Phụ lục CITES vì mục đích thương mại phải đảm bảo các điều kiện: Với động vật, đảm bảo nguồn giống hợp pháp (Khai thác hợp pháp; mẫu vật sau xử lý tịch thu theo quy định pháp luật; nhập khẩu hợp pháp, hoặc mẫu vật từ cơ sở nuôi hợp pháp khác); Chuồng, trại được xây dựng phù hợp với đặc tính của loài nuôi, bảo đảm các điều kiện an toàn cho người và vật nuôi, vệ sinh môi trường, phòng ngừa dịch bệnh; Loài nuôi được Cơ quan khoa học CITES Việt Nam công bố có khả năng sinh sản liên tiếp qua nhiều thế hệ trong môi trường có kiểm soát; và được xác nhận bằng văn bản việc nuôi sinh sản, sinh trưởng không làm ảnh hưởng đến sự tồn tại của loài nuôi và các loài có liên quan trong tự nhiên; Có phương án nuôi theo Mẫu số 04, Mẫu số 06 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định.

     Với thực vật, phải đảm bảo nguồn giống hợp pháp (Khai thác hợp pháp; mẫu vật sau xử lý tịch thu theo quy định của pháp luật; nhập khẩu hợp pháp, hoặc mẫu vật từ cơ sở trồng hợp pháp khác); Cơ sở trồng phù hợp với đặc tính của loài; Có phương án trồng theo Mẫu số 05, Mẫu số 07 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định. Trong quá trình nuôi, trồng phải lập sổ theo dõi nuôi, trồng theo Mẫu số 16, Mẫu số 17 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định; định kỳ báo cáo và chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước về thủy sản, lâm nghiệp cấp tỉnh.

 

Nguyễn Thị Nga

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 2/2019)

 

 

 

 

Ý kiến của bạn