Banner trang chủ
Thứ Ba, ngày 19/11/2024

Cơ chế điều chỉnh biên giới các bon, cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp Việt Nam

19/06/2023

    Cơ chế điều chỉnh biên giới các bon (CBAM - các bon border adjustment mechanism) là một chính sách thương mại về môi trường bao gồm các khoản thuế được áp đối với hàng nhập khẩu từ các nhà sản xuất đặc biệt sử dụng nhiều các bon. Để hiện thực hóa mục tiêu phát thải ròng các bon “0” vào năm 2050 các nước khối các nước châu Âu (EU), Mỹ đã ban hành và sẽ áp dụng CBAM đối với một số mặt hàng nhập khẩu, riêng Mỹ áp dụng cả các nhà sản xuất trong nước.

    Cơ chế điều chỉnh biên giới các bon ở các nước EU và Mỹ

    Tại EU, để thực hiện một phần kế hoạch khử cacbon cho nền kinh tế của mình vào năm 2050, EU đang đã đưa ra CBAM, để giảm nguy cơ rò rỉ các bon và tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành công nghiệp EU đang hướng tới quá trình khử các bon của quy trình sản xuất. CBAM giúp giảm khí thải CO2, trong và ngoài EU. Thương mại quốc tế mô hình thay đổi có lợi cho các quốc gia nơi sản xuất tương đối hiệu quả các bon. EU có thể xem xét các chính sách hỗ trợ CBAM, bao gồm cả việc sử dụng doanh thu do CBAM tạo ra, để tăng tốc phổ biến và tiếp thu các công nghệ sản xuất sạch hơn cho các nhà sản xuất ở các nước xuất khẩu vào EU bị tác động của CBAM. Điều này có thể có lợi cả về mặt xanh hóa nền kinh tế và thúc đẩy một hệ thống thương mại toàn diện hơn.

    EU kỳ vọng CBAM sẽ khuyến khích các nhà sản xuất nước ngoài giảm lượng khí thải hoặc khuyến khich chính phủ tương ứng của họ thiết lập giá các bon riêng. CBAM là một công cụ để ngăn chặn rò rỉ các bon và giảm phát thải khí nhà kính (KNK), CBAM phải đảm bảo rằng các sản phẩm nhập khẩu phải tuân thủ theo hệ thống quy định áp dụng chi phí các bon tương đương với chi phí chịu theo EU EST, dẫn đến việc định giá các bon tương đương cho hàng nhập khẩu và sản phẩm nội địa. Một thiết kế như vậy sẽ đảm bảo rằng hàng nhập khẩu trả toàn bộ chi phí các bon mà nhà sản xuất ở EU phải đối mặt. CBAM tạo ra các thị trường các bon trong nước ở các quốc gia ngoài EU hiện đang thiếu EST hoặc sử dụng phân bổ miễn phí.

    Ngày 11/3/2021, Nghị viện châu Âu đã bỏ phiếu thông qua CBAM và sẽ có hiệu lực từ năm 2026. EU quyết định sẽ cân bằng giá các bon giữa sản phẩm nội địa và nhập khẩu thông qua thực hiện cơ chế CBAM. CBAM sẽ áp giá các bon cho hàng nhập khẩu dựa trên cường độ phát thải KNK của quy trình sản xuất. Bước đầu đối tượng áp dụng là hàng hóa của các ngành: Điện, sắt thép, phân bón, nhôm và xi măng. Cuối năm 2025, Ủy ban châu Âu sẽ đánh giá CBAM đang hoạt động như thế nào, và có thể mở rộng phạm vi sang nhiều sản phẩm và dịch vụ hơn, bao gồm cả chuỗi giá trị và có thể bao gồm “phát thải gián tiếp” và chính thức CBAM có hiệu lực từ ngày 1/1/2026. Một khi CBAM đi vào hoạt động đầy đủ vào năm 2026, các nhà nhập khẩu các sản phẩm này của EU sẽ cần phải xin phép từ cơ quan CBAM và mua giấy chứng nhận các bon tương ứng với giá các bon mà sẽ được trả tiền để sản xuất hàng hóa ở EU. Giá trị của chứng nhận dựa vào giá tín chỉ phát thải các bon hàng tuần của Hệ thống giao dịch phát thải (ETS). Mức thuế phụ thuộc vào hàm lượng phát thải trong sản xuất cũng như chênh lệch giá các bon theo ETS của EU và giá tại nước sản xuất.

    Tại Mỹ, Đạo luật Cạnh tranh Sạch (2022) đặt ra điều chỉnh biên giới các bon đối với hàng nhập khẩu sử dụng nhiều năng lượng, đồng thời khuyến khích quá trình khử các bon trong sản xuất trong nước nhằm thúc đẩy các nhà sản xuất trong nước và giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu. Bắt đầu từ năm 2024, việc điều chỉnh sẽ áp dụng cho các ngành công nghiệp sử dụng nhiều năng lượng, bao gồm nhiên liệu hóa thạch, sản phẩm dầu mỏ tinh chế, hóa dầu, phân bón, hydro, axit adipic, xi măng, sắt thép, nhôm, thủy tinh, bột giấy và giấy, ethanol. Đối với hàng nhập khẩu được sản xuất ở các nền kinh tế thiếu minh bạch, mức thuế sẽ được tính dựa trên tỷ lệ giữa cường độ các bon của nền kinh tế của quốc gia xuất xứ với cường độ các bon của nền kinh tế Mỹ.

    Đối với hàng hóa nhập khẩu được sản xuất tại các nền kinh tế minh bạch với dữ liệu đáng tin cậy, mức thuế sẽ được tính dựa trên mức độ mà cường độ các bon trung bình theo ngành cụ thể có liên quan của quốc gia xuất xứ vượt quá cường độ các bon trung bình đối với ngành cụ thể tương đương của Mỹ; các nhà sản xuất nước ngoài ở những nền kinh tế như vậy có thể sử dụng cường độ các bon của riêng họ. Các nhà nhập khẩu sẽ chỉ trả khoản thuế dựa trên phần phát thải vượt quá hạn ngạch phát thải tương đương của Mỹ. CBAM của Mỹ áp dụng cả với các nhà sản xuất trong nước.

    Cơ hội và thách thức cho DN Việt Nam khi thị trường xuất khẩu EU, Mỹ áp dụng CBAM

    Để thích ứng với thị trường xuất khẩu các nước EU và Mỹ buộc các DN Việt Nam phải chuyển đổi cách thức và hướng đi kịp thời để tuân thủ các quy định mới của nước sở tại và phát triển bền vững. Việc áp dụng CBAM ở thị trường xuất khẩu các nước EU, Mỹ cũng tạo ra các cơ hội và thách thức cho các DN Việt Nam. Về cơ hội, hiện nay Việt Nam đã và đang đẩy mạnh hoàn thiện cơ sở pháp lý tăng cường giảm phát thải KNK, định giá các bon, phát triển thị trường các bon, cấp tín chỉ các bon là tiền đề định hướng và thúc đẩy các ngành/lĩnh vực và DN lựa chọn giảm phát thải các bon hiệu quả, cụ thể: (1) Quy định tại Luật BVMT năm 2020; Nghị định số 06/2022/NĐ-CP, Thông tư số 01/2022/TT-BTNMT đã cụ thể hóa các quy định về ứng phó BĐKH, giảm phát thải KNK, thúc đẩy phát triển thị trường các bon trong nước. Theo đó các cơ sở có mức phát thải KNK hằng năm từ 3.000 tấn CO2 tương đương trở lên hoặc thuộc một trong các trường hợp cụ thể (Nhà máy nhiệt điện, cơ sở sản xuất công nghiệp có tổng lượng tiêu thụ năng lượng hằng năm từ 1.000 tấn dầu tương đương (TOE) trở lên; Công ty kinh doanh vận tải hàng hoá có tổng tiêu thụ nhiên liệu hằng năm từ 1.000 TOE trở lên; Tòa nhà thương mại có tổng tiêu thụ năng lượng hằng năm từ 1.000 TOE trở lên; Cơ sở xử lý chất thải rắn có công suất hoạt động hằng năm từ 65.000 tấn trở lên) phải thực hiện kiểm kê phát thải KNK và xây dựng, thực hiện kế hoạch thực hiện giảm phát thải KNK theo hạn ngạch được phân bổ.

    Ngoài ra, thời gian qua, Việt Nam đã thực hiện các dự án theo Cơ chế phát triển sạch (CDM), các DN Việt Nam đã tiếp nhận chuyển giao công nghệ cũng như có thêm các nguồn lực tài chính từ việc trao đổi, bán tín chỉ các bon. Khi thị trường các bon tại Việt Nam vận hành sẽ giúp thúc đẩy khối DN thực hiện các hoạt giảm nhẹ phát thải KNK tối ưu, nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN, chuyển đổi mô hình kinh tế theo hướng các bon thấp nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, từ đó nâng cao năng lực xuất khẩu hàng hóa, sản phẩm sang các nước tại thị trường các nước EU, Mỹ. Việt Nam đang chuyển đổi một cách tổng thể nền kinh tế trong nước để đạt phát thải ròng các bon bằng không vào năm 2050, trong đó lấy các DN, các lĩnh vực mũi nhọn làm động lực chuyển đổi. Cụ thể, tại Quyết định số 888/QĐ-TTg ngày 25/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án về những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu. Trong đó có nhiệm vụ ưu tiên triển khai thực hiện công cụ định giá các bon, khuyến khích đầu tư giảm phát thải KNK trong các lĩnh vực/ngành, phát triển nguồn năng lượng tái tạo, công nghệ thu, lưu trữ và sử dụng các bon,... Tại Quyết định số 888/QĐ-TTg, các Bộ/ngành được giao thực hiện các nhiệm vụ ưu tiên để triển khai và thực hiện cụ thể từ năm 2022 - 2030. Đây cũng là cơ hội để các DN quyết tâm và tận dụng các ưu đãi, khuyến khích mà chính sách đang đà thúc đẩy để đổi mới, phát triển theo hướng các bon thấp, thân thiện môi trường, nâng cao năng lực cạnh tranh ở các thị trường trong và ngoài nước.

    Việt Nam đã và đang thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050 ban hành tại Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 26/7/2022. Nhiệm vụ giảm phát thải KNK trong các quá trình công nghiệp và sử dụng sản phẩm công nghiệp: “Cải tiến, phát triển và ứng dụng công nghệ trong sản xuất vật liệu xây dựng; phát triển và sử dụng vật liệu xây dựng tiết kiệm năng lượng, vật liệu xanh trong lĩnh vực nhà ở và thương mại. Thực hiện các giải pháp nghiền xỉ lò thổi, nghiền tro bay, nghiền Puzzolana và nghiền đá vôi thay thế, giảm tỷ lệ clinker trong sản xuất xi măng. Áp dụng công nghệ phân hủy nhiệt độ cao và các công nghệ mới để giảm phát thải N2O trong lĩnh vực hóa chất. Áp dụng công nghệ thu giữ các bon trong các lĩnh vực sản xuất xi măng, hóa chất - phân bón và luyện thép. Áp dụng công nghệ điện phân ô-xít nóng chảy trong lĩnh vực luyện thép; sử dụng hydro thay thế coke trong luyện thép “xanh”;... từ năm 2035. Các ngành điện, sắt thép, phân bón, nhôm và xi măng, năng lượng,... đã được chọn ngành ưu tiên chủ đạo trong việc thực hiện các giải pháp, biện pháp về giảm phát thải KNK trong ngắn hạn và dài hạn mà chiến lược đã đề ra.

    Khi các thị trường xuất khẩu các nước EU, Mỹ áp dụng CBAM sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ không chỉ giúp các nhà hoạch định chính sách Việt Nam khi nghiên cứu cấp hạn ngạch phát thải KNK cho các ngành có sự điều chỉnh kịp thời để giảm thiểu tình trạng rò rỉ các bon từ các nguồn vốn đầu tư nước ngoài khi sản phẩm, hàng hóa của các nhà đầu tư mà thị trường tiêu thụ không phải các nước EU và Mỹ. Bên cạnh đó, các tập đoàn, DN lớn đã và đang tham gia xuất khẩu sang các nước EU, Mỹ có năng lực, chú trọng thực hiện các trách nhiệm đạo đức kinh doanh và BVMT cao sẽ tăng cường sử dụng các phương pháp sản xuất sử dụng ít các bon hơn trong các lĩnh vực/ngành có áp dụng CBAM. Khi DN chuyển đổi tư duy và mô hình kinh doanh trong bối cảnh mới từ áp lực các thị trường xuất khẩu áp dụng CBAM vừa có khả năng thích ứng và trở thành đầu tàu giảm phát thải các bon mạnh mẽ góp phần đạt mục tiêu chung phát thải ròng các bon bằng “0” vào năm 2050 của Việt Nam.

    Về thách thức, để tiếp tục phát triển và mở rộng thị phần xuất khẩu các sản phẩm, hàng hóa tại các nước EU, Mỹ khi áp dụng CBAM DN cũng đối mặt một số vấn đề sau: (1) Giá thị trường các bon trên ETS ở EU, Mỹ giá luôn biến động, do đó DN Việt Nam phải luôn chủ động cập nhật và có định hướng, kế hoạch giảm phát thải các bon theo lộ trình rõ ràng, linh hoạt trong quá trình sản xuất tránh vượt ngưỡng tiêu chuẩn của EU, Mỹ để duy trì, phát triển thị phần tại thị trường xuất khẩu EU, Mỹ; (2) Hiện nay cơ sở pháp lý về định giá các bon, hình thành và phát triển thị trường các bon, cấp tín chỉ các bon, hạn ngạch phát thải các bon của từng ngành, các cơ sở chưa hoàn thiện cũng ảnh hưởng đến việc tính toán khả năng đáp ứng tiêu chuẩn phát thải của DN để có định hướng, giải pháp giảm phát thải thích ứng với CBAM ở các nước EU, Mỹ; (3) Việc áp dụng CBAM cũng tạo khó khăn về vốn, nhân lực phát sinh đối với các DN trong quá trình chuyển đổi và thực hiện các nội dung, giải pháp giảm phát thải các bon trong các dây chuyền, công đoạn sản xuất các sản phẩm, hàng hóa xuất khẩu đáp ứng tiêu chuẩn phát thải các bon.

    Một số khuyến nghị định hướng năng cao khả năng thích ứng với CBAM của DN Việt Nam

    Từ các cơ hội và thách thức của DN khi tham gia xuất khẩu các sản phẩm, hàng hóa sẽ áp dụng CBAM ở các nước EU, Mỹ thời gian tới, Việt Nam cần xem xét thực hiện các nội dung sau để duy trì và mở rộng thị phần xuất khẩu của các DN: Việt Nam sớm cấp hạn ngạch phát thải KNK và cách quy đổi về đơn vị tCO2e của các loại KNK khác của từng ngành/lĩnh vực, sau đó phân bổ cho các DN. Từ đó DN có cơ sở tính toán điều chỉnh hạn ngạch vừa đạt tiêu chuẩn quy định trong nước và đáp ứng yêu cầu phát thải các bon ở các nước sẽ áp dụng CABM.

    Đồng thời, khi ban hành hạn ngạch phát thải KNK cho các ngành/cơ sở cần xem xét điều chỉnh mức hạn ngạch phù hợp để DN trong nước có thể thực hiện và góp phần giảm thiểu rủi ro rò rỉ các bon từ các hoạt động đầu tư trong nước có nguồn vốn nước ngoài mà hàng hóa không xuất khẩu sang các nước sẽ áp dụng CBAM; Sớm hoàn thiện cơ sở pháp lý về định giá và vận hành thị trường các bon trong nước, việc này sẽ giúp DN cân nhắc chuyển đổi mô hình kinh doanh chuyển đổi công nghệ sản xuất để không thải vượt mức hạn ngạch cho phép, có thể dư và phát hành tính chỉ các bon bán ra trên thị trường hoặc dành một khoản tiền để mua các tín chỉ các bon nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn quy định cả trong nước và ở các nước sẽ áp dụng CBAM; Các Bộ/ngành cần xây dựng và thực hiện các chính sách, định hướng để khuyến khích, hỗ trợ về tài chính, công nghệ, đào tạo nhân lực cho DN chuyển đổi mô hình kinh doanh phù hợp hướng tới đáp ứng các quy định khi các thị trường xuất khẩu sẽ áp dụng CBAM, đặc biệt các ngành/lĩnh vực có các sản phẩm, hàng hóa là đối tượng sẽ áp dụng CBAM giai đoạn đầu (điện, sắt thép, phân bón, nhôm và xi măng, nhôm, thủy tinh, bột giấy và giấy…); Các DN giảm lượng phát thải KNK cần chú trọng vào cải tiến, nâng cấp các quy trình, công đoạn sản xuất và vận chuyển hiệu quả hướng tới mục tiêu các bon thấp và đáp ứng tiêu chuẩn phát thải các bon ở các thị trường xuất khẩu các nước EU, Mỹ.

Nguyễn Thị Thu Hoài

Viện Khoa học môi trường

Nguyễn Phương Nhung

Trường Đại học Công nghệ giao thông vận tải

(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 2/2023)

    Tài liệu tham khảo:

    1. https://taxation-customs.ec.europa.eu/green-taxation-0/các bon-border-adjustment-mechanism

    2. https://www.congress.gov/bill/117th-congress/senate-bill/4355/text?r=6&s=1 - S.4355 - Clean Competition Act

    3. DiGregorio, M., Ha, T., Bentes, P. 2021, Background Study on the European Union’s Các bon Border Adjustment Mechanism: Options for Policy Responses. 4. European Parliamentary Research Service, 2022, EU các bon border adjustment mechanism: Implications for climate and competitiveness.

    5. Luật BVMT số 72/2020/QH14 ngày 17/11/2020

    6. Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/1/2022 hướng dẫn Luật BVMT

    7. Nghị định 06/2022/NĐ-CP ngày 7/1/2022 quy định giảm nhẹ phát thải KNK và bảo vệ tầng ô-dôn

    8. Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT ngày 10/1/2022 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật BVMT

    9. Thông tư số 01/2022/TT-BTNMT ngày ngày 7/1/2022 quy định chi tiết thi hành Luật BVMT về ứng phó với biến đổi khí hậu 

Ý kiến của bạn