05/07/2022
Tóm tắt
Vùng bờ là nơi giao nhau giữa đất liền và biển bao gồm vùng biển gần bờ và vùng đất liền kề với đường mép nước. Phạm vi vùng bờ có thể mở rộng vào đất liền và ra biển theo mức độ khác nhau, tùy thuộc vào mục tiêu và nhu cầu phát triển của mỗi quốc gia, vùng và tỉnh. Các nhà nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng, hiện có rất nhiều đề xuất về tiêu chí/tiêu chuẩn để xác định phạm vi vùng bờ. Ở Việt Nam, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo có quy định phạm vi vùng bờ được xác định trên cơ sở căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội (KT - XH) của từng khu vực thuộc vùng bờ; đặc điểm quá trình tương tác giữa đất liền hoặc đảo với biển; yêu cầu BVMT vùng bờ, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và một số đặc điểm khác ở vùng bờ. Tuy nhiên, các tiêu chí/tiêu chuẩn nêu trên còn mang tính khái quát, cần được cụ thể hóa và làm rõ. Vì vậy, trong bài viết này sẽ đề xuất các tiêu chí/tiêu chuẩn phù hợp nhằm xác định phạm vi vùng bờ ở Việt Nam.
Từ khóa: Vùng bờ, ranh giới vùng bờ, phạm vi vùng bờ.
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, ở Việt Nam đã có nhiều cũng đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu khác nhau liên quan đến xác định phạm vi vùng bờ [7,8,9]. Việc xác định phạm vi vùng bờ có thể kết hợp giữa quan điểm quản lý mang tính hành chính với một số yếu tố, tiêu chuẩn đặc trưng, đặc thù về điều kiện tự nhiên, TN&MT. Số các yếu tố, tiêu chuẩn xem xét càng nhiều thì việc xác định ranh giới càng phức tạp, khó thống nhất sau khi chồng ghép các lớp thông tin và chi phí sẽ tăng cao. Do đó, căn cứ vào tình hình cụ thể về những thông tin, dữ liệu đã có, yêu cầu công tác quản lý...để lựa chọn các yếu tố, tiêu chuẩn phù hợp phục vụ xác định phạm vi, ranh giới vùng bờ.
Ngay cả ở những nước phát triển (Mỹ, Tây Ban Nha, Cu Ba...), cũng cần phải lồng ghép các công cụ, kỹ thuật khác nhau như phát triển công cụ mô hình hóa các quá trình biển và đại dương, kết hợp với thông tin, dữ liệu đã có và đo đạc, khảo sát bổ sung để tăng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động xác định các loại ranh giới quản lý biển nói riêng, toàn bộ quá trình quản lý nói chung. Ngoài ra, sử dụng kết hợp các công cụ này còn bảo đảm tính linh hoạt, thích ứng kịp thời đối với những thay đổi, điều chỉnh của hoạt động quản lý.
Như vậy, xác định phạm vi vùng bờ là một phần cốt lõi của công tác quản lý tổng hợp thống nhất về biển và hải đảo, là cơ sở cho phân vùng, hoạch định chính sách phát triển, cấp phép khai thác sử dụng bền vững nguồn tài nguyên trên vùng bờ. Do đó, để giải quyết được bài toán quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường vùng bờ cần phải xác định được phạm vi vùng bờ theo các tiêu chí, tiêu chuẩn phù hợp với từng vùng, khu vực và địa phương có biển.
2. Kinh nghiệm quốc tế trong sử dụng tiêu chuẩn, tiêu chí xác định phạm vi vùng bờ
Theo báo cáo của Liên hợp quốc [12] chỉ ra rằng: “Rõ ràng là không một tiêu chuẩn chung nào có thể áp dụng cho tất cả các trường hợp, cũng như không có một tiêu chuẩn riêng nào đáp ứng được tất cả các yêu cầu của việc xác định một cách có hiệu quả vùng không gian cần quản lý. Sử dụng một tiêu chuẩn có ưu điểm là tính đơn giản trong khi đó tính cạnh tranh và tầm quan trọng về mặt môi trường có thể lại là ưu điểm của một phương pháp xác định khác”. Cụ thể hơn nhưng về mặt quan niệm không khác nhiều so với cách tiếp cận này, khung cơ bản do Smith và Lalwani [13] đưa ra trong đó gộp vào 5 biến lượng:
(1) Các yếu tố khí tượng thủy văn và hải dương (như giới hạn của gió nhẹ từ lục địa thổi về phía biển, ranh giới nước mặn - nước ngọt ở các cửa sông...);
(2) Các yếu tố địa mạo, địa lý (chiều sâu nước về phía biển, độ lớn thủy triều,...);
(3) Các yếu tố địa sinh vật (giới hạn ngập lụt vùng ven biển, các loài thực vật chịu mặn...);
(4) Việc sử dụng vùng ven bờ của con người (giới hạn cảng, cơ sở hạ tầng nghề cá, các khu vực vui chơi giải trí...);
(5) Các yếu tố pháp lý (các vùng nước quốc tế, lãnh hải,...).
Có thể thấy để xác định phạm vi vùng bờ, thường phải chú ý vào các vấn đề sau:
(i) Mục tiêu/mục đích của việc quản lý;
(ii) Các cơ hội do các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia mang lại;
(iii) Các cơ hội và các ràng buộc do môi trường tự nhiên đem lại.
Như vậy, trong 5 Tiêu chuẩn/Bộ tiêu chí phục vụ công tác phân định vùng ven bờ nêu trên, tập hợp các tiêu chí số 4 (các mục đích sử dụng) liên quan đến các mục tiêu và mục đích sử dụng vùng bờ, trong khi đó các tiêu chí 1, 2 và 3 liên quan đến các cơ hội và các ràng buộc. Vì mối liên quan qua lại giữa mục tiêu, cơ hội và ràng buộc, một loạt cơ cấu quản lý vùng bờ phát sinh: các cộng đồng ven bờ sẽ lựa chọn trong số chúng, hướng tới việc cực đại các cơ hội, thể mạnh và cực tiểu hóa các ràng buộc. Trong thực tế, cộng đồng ven bờ đóng vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý. Chính họ xây dựng nền tảng cho việc quản lý và, phù hợp nhất với lựa chọn giữa các cấu trúc/cơ cấu quản lý theo cách thức có thể hiểu được vùng ven bờ. Mặc dù cộng đồng ven bờ vẫn chưa được chú ý nhiều trong các nghiên cứu nhận thức nhưng họ có ý nghĩa quyết định trong quản lý vùng bờ. Về ranh giới vùng bờ, đứng trên quan điểm tổng thể thì có hai cách xác định phạm vi:
- Khi nhìn nhận vùng bờ như là một hệ thống môi trường tự nhiên thì hoạt động quản lý chủ yếu là bảo vệ và giữ gìn. Khi đó các tiêu chuẩn xác định bắt nguồn từ khoa học về môi trường, từ các hệ sinh thái tự nhiên được coi như là các tiêu chuẩn có nhiều đặc điểm ưu việt hơn hẳn. Trong trường hợp này thì các loại ranh giới giữa vùng bờ, rìa lục địa, thay thềm lục địa (tự nhiên) là những cấu trúc tham chiếu chính.
- Khi nhìn nhận vùng bờ như là một khu vực cho hoạt động khai thác, sử dụng và là khu vực phải phân định để điều chỉnh hành vi trong các hoạt động này thì vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia là tiêu chuẩn xác định ranh giới ở mức cơ bản. Khi đó, giới hạn các vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế là các yếu tố hay cấu trúc tham chiếu chính cho quá trình phân định[14].
Tuy nhiên, việc phân tách này cũng chỉ mang tính tương đối và dựa trên cơ sở đánh giá tính trội của từng cách phân định. Sở dĩ rất khó sử dụng đơn độc một cách phân định nào trong hai cách trên chính là ở chỗ các mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau giữa các yếu tố hay cấu trúc được sử dụng theo từng cách phân định. Thực tế ở những nơi có điều kiện môi trường tốt, có tính đa dạng sinh học cao, có các hệ sinh thái đặc thù thì sức ép do nhu cầu khai thác, sử dụng tài nguyên gây ra lại càng lớn. Về mặt lý thuyết nếu các loại ranh giới sử dụng làm tham chiếu trong cách phân định này càng gần nhau hoặc khác biệt nhau ít thì càng thuận lợi cho cùng một phân định.
2.1. Xác định ranh giới quản lý tổng hợp vùng bờ đảo Mallorca, Tây Ban Nha
Theo [14] một phương pháp phân định ranh giới quản lý tổng hợp vùng bờ dựa trên việc tích hợp các đặc điểm về tài nguyên môi trường, hoạt động kinh tế xã hội cả trên vùng biển ven bờ và dải đất ven biển đã được đề xuất tại khu vực đảo Mallorca được gọi là khu vực thuộc thẩm quyền quản lý hay còn gọi là đơn vị bờ biển. Cách tiếp cận này xem xét ảnh hưởng từ các khía cạnh thẩm quyền quản lý môi trường xã hội hay là khu vực chức năng dựa trên các phân tích để xác định.
Đơn vị bờ biển (SU) là loại ranh giới đầu tiên được đề xuất để phân chia phạm vi vùng bờ. SU thể hiện tình trạng và tổ chức của các khu vực ven biển khác nhau chẳng hạn khu vực tự nhiên và khu vực đã và đang được khai thác. Ranh giới về phía đất liền của một SU được xác định theo khu vực ảnh hưởng quyền tài phán được xác định theo luật ven biển của Tây Ban Nha với độ rộng khoảng 500 m về phía đất liền. SU kết hợp các đặc điểm tự nhiên (địa hình, địa chất ven biển) và hoạt động kinh tế xã hội chẳng hạn mức độ du lịch và sử dụng đất. 9 loại SU đã được xác định dựa trên cơ sở các tiêu chí này trong vùng bờ của Mallorca và được chuyển đổi sang các bản đồ số hệ thống thông tin địa lý (Geographic Information Systems - GIS). Chi tiết các phương pháp được sử dụng để xác định các cấp trên như sau:
- Ở phần đất phía trên mực nước biển cao nhất trung bình nhiều năm được phân thành 2 nhóm: khu vực bằng phẳng nằm trong khoảng 0 - 200 m trên mực nước biển và khu vực đồi núi có độ cao trên 200 m. Các khu vực dưới 200 m được coi là khu vực bằng phẳng trái ngược với khu vực đồi núi do nền tảng bằng phẳng hậu kiến tạo ở phía Nam và Đông Nam của quần đảo dẫn đến các vách đá thường vượt quá 100 m. Mô hình số độ cao (digital elevation model - DEM) với kích thước ô 50 m được sử dụng để xây dựng các bản đồ tỷ lệ 1/5.000.
- Đất đai vùng bờ được phân thành 3 loại sử dụng chính gồm đất đô thị, đất nông thôn và đất tự nhiên bao gồm các khu bảo tồn tự nhiên. Bản đồ số về thông tin liên quan tỷ lệ 1/5.000 được xây dựng dựa trên bản đồ quy hoạch lãnh thổ đảo của Mallorca và Bản đồ độ che phủ đất Corine tỷ lệ 1/50.000.
- Các kiểu bờ biển được xác định theo tài liệu lịch sử dựa trên tính chất của các thành tạo vật chất tạo ra bờ biển, mức độ phơi lộ và tính dễ dàng tiếp cận theo tiêu chí bờ biển đó có thể được làm sạch. Phương pháp này dựa trên đề xuất của NOAA và đã phân thành 10 kiểu bờ biển liên quan tới bờ đá và 7 kiểu liên quan tới bãi biển. Để đơn giản vùng bờ được phân thành 2 loại bờ biển đá và bờ biển khác và được thể hiện trên bản đồ số tỷ lệ 1/5.000.
- Cuối cùng các khu du lịch được số hóa sử dụng với tỷ lệ 1/5.000 dựa trên kế hoạch sắp xếp cung cấp du lịch của Hội đồng du lịch thuộc chính phủ Quần đảo Belearic (1995). Kết quả bản đồ là một lớp đa giác (polygon) chứa các thông tin về số liệu du lịch hiện diện trong mỗi trung tâm dân cư cho toàn bộ quần đảo Mallorca.
Bản đồ sử dụng đất và các trung tâm du lịch được chuyển đổi thành dữ liệu raster với kích thước ô là 50 m. Cả hai bản đồ được chồng ghép với bản đồ độ cao (cũng với kích thước ô là 50 m), kết quả là một bản đồ raster của Mallorca với 3 tiêu chí: độ cao, sử dụng đất và các trung tâm du lịch ven biển. Vùng đệm 500 m được áp dụng và cuối cùng bản đồ kiểu loại ven biển được chồng ghép. Kết quả của việc chồng ghép 4 lớp thông tin này trong vùng đệm 500 m là một bản đồ raster trên đó mỗi ô có một thang màu khác nhau đại diện cho các kết hợp khác nhau của từng đặc tính.
2.2. Xác định phạm vi vùng bờ thí điểm cho Santiago de Cuba, Cu Ba [16]
Các khuôn khổ pháp lý và khái niệm khác nhau được sử dụng để thiết lập ranh giới vùng bờ. Quản lý tổng hợp vùng bờ (QLTHVB) sử dụng một số tiêu chí, trong khi Quy hoạch sử dụng đất (Land-Use Planning) lại sử dụng các tiêu chí khác không trùng với tiêu chí QLTHVB. Một phân tích quan trọng về chủ đề này được thực hiện trong nghiên cứu hiện tại với mục tiêu đề xuất một phương pháp cho xác định và phân ranh giới vùng bờ. Phương pháp cung cấp một cách đánh giá tổng hợp về lưu vực sông, vùng bờ các vùng kinh tế tương ứng. Ngoài ra, phương pháp bao gồm các biến phụ thuộc và độc lập, đại diện cho các công cụ ra quyết định hữu ích để áp dụng các sáng kiến QLTHVB và Quy hoạch sử dụng đất. Các khái niệm về Đơn vị môi trường ven biển sơ cấp cho quản lý tổng hợp và Đơn vị môi trường ven biển cơ sở cho quản lý tổng hợp và Quy hoạch sử dụng đất được đề xuất và áp dụng ở Cuba, trong đó 23 PECUIM và 4 BECUIMLUP được phân định và phân ranh giới.
2.3. Xác định phạm vi vùng bờ ở Mỹ [16]
Về phạm vi của vùng bờ, Luật quản lý vùng bờ của Mỹ đã xác định bao gồm vùng mở rộng hướng vào đất liền tính từ đường bờ biển và vùng biển ven bờ, như sau:
Vùng đất liền thuộc các bang được tính từ đường bờ biển ứng với một mực nước xác định vào phía đất liền với một khoảng cách cần thiết để kiểm soát vùng đất ven bờ và các hoạt động ở đó gây tác động trực tiếp đến vùng nước ven bờ và để kiểm soát vùng đất có khả năng bị ảnh hưởng hay dễ bị tổn thương do nước biển dâng (Luật Quản lý vùng bờ, 16 U.S.C. §1453 (Mục 304), bổ sung năm 1990). Quy định này không được áp dụng thống nhất cho các bang thuộc Mỹ.
- Tại bang California: Khoảng cách là một đường phụ thuộc vào địa hình tự nhiên được xem là đường phân nước của các lưu vực sông với biển.
- Tại bang Washington: Chỉ lấy 200 feet (khoảng 60 m) tính từ mực nước triều cao trung bình cho các mục đích thực hiện hoạt động quản lý cụ thể, trong khi đó hoạt động quy hoạch thì mở rộng phạm vi vùng bờ về phía đất liền đến hết các quận, huyện và thị xã ven biển.
- Tại bang Massachusetts (Massachusetts Office of Coastal Zone Management: Policy Guide, 2011): giới hạn về phía đất liền được xác định là 100 feet (30 m) kể từ hệ thống đường giao thông ven biển (đường bộ, đường sắt…). Tuy nhiên, những khu vực gắn kết chặt chẽ với các hệ sinh thái biển như các sông vùng triều hay vùng đất lân cận, nơi thảm thực vật nước mặn bị ảnh hưởng cũng được tính trong phạm vi vùng bờ để quản lý.
- Tại Florida, America Samoa, Guam, quần đảo Bắc Mariana thì toàn bộ vùng đất của bang hay lãnh thổ của đảo được xem là vùng bờ.
Việc định rõ phạm vi của quản lý tổng hợp vùng bờ về phía biển thường khó khăn hơn so với về phía đất liền do không có giới hạn hình thái để có thể xác định rõ ràng. Do đó, trong thực tế, giới hạn thẩm quyền tài phán quốc gia của một vùng có thể là một lựa chọn. Tuy nhiên, các hoạt động như vận tải thủy, đánh bắt, khai thác dầu/khí… cũng được xem xét. Các lựa chọn bao gồm:
(1) Sử dụng mực nước trung bình thấp nhất nhiều năm để qui định khoảng cách ra phía biển có bao gồm cả vùng gian triều.
(2) Sử dụng rìa lục địa kéo dài ra phía biển: Theo cách này khoảng mở ra phía biển sẽ rộng lớn hơn và bao gồm nhiều hơn các tài nguyên vùng bờ.
Dựa vào cơ sở nêu trên, phân định vùng bờ của Mỹ tại một số bang được thể hiện trong Bảng 1 dưới đây.
Bảng 1: Phạm vi vùng bờ một số bang của Mỹ
TÊN CÁC BANG |
PHẠM VI VÙNG BỜ |
---|---|
ALABAMA |
Vùng bờ Alabama mở rộng vào đất liền tới đường bình độ cao 10 foot (+3.0 m) liên tục ở các quận Baldwin và Mobile. |
AMERICAN SAMOA |
Vùng bờ Samoa American là toàn bộ Lãnh thổ. |
CALIFORNIA & BCDC |
Vùng bờ California thường mở rộng 1.000 yard (0.9 m) hay khoảng 1.000 m vào đất liền từ đường triều cao trung bình. Trong các khu vực giải trí và các khu sinh cư cửa sông ven biển có ý nghĩa quan trọng, vùng bờ mở rộng vào trong đất liền đến đường ridgeline chính đầu tiên hoặc 5 dặm (5*1.6 km = 9 km) từ đường triều cao trung bình, bất cứ đường nào ít hơn. Trong các khu vực đô thị phát triển, ranh giới thường là ít hơn 1.000 yard. Vùng ven biển của Ủy ban bảo tồn và phát triển vịnh San Francisco (BCDC) bao gồm vùng nước trên mặt, đầm lầy và bãi bùn của vịnh San Francisco lớn hơn và các khu vực nằm sâu trong phạm vi 100 feet từ đường của tác động triều cao nhất. Ranh giới cũng bao gồm: đầm lầy Suisun và vùng đệm: vùng đất ngập nước được quản lý thoát ra khỏi Vịnh; và vùng nước trên mặt thoát ra từ Vịnh và được sử dụng trong sản xuất muối. |
CONNECTICUT |
Vùng bờ Connecticut có hai lớp được hợp nhất bên trong 36 thị trấn ven biển. lớp thứ nhất được giới hạn bởi một đường liên tục được phân định bằng khoảng lùi tuyến tính 1.000 foot được đo từ mực nước cao trung bình ở vùng nước ven biển; hoặc khoảng lùi tuyến tính 1.000 foot được đo từ ranh giới nội địa của vùng đất ngập nước do chính quyền bang quy định; hoặc độ cao đường mức nằm trong đất liền liên tục của vùng lũ ven biển tần suất một trăm năm; bất cứ ranh giới nào xa nhất trong đất liền. Lớp thứ hai là khu vực giữa ranh giới nội địa của 36 cộng đồng ven biển và ranh giới nội địa của lớp thứ nhất. |
DELAWARE |
Vùng bờ Delaware bao gồm toàn bộ bang. |
FLORIDA |
Vùng ven biển Florida là toàn bộ bang, nhưng có hai lớp. Chính quyền địa phương đủ điều kiện nhận các quỹ quản lý ven biển mà được giới hạn tới các quận và các thành phố ven biển vùng Vịnh và Đại Tây Dương mà bao gồm hoặc tiếp giáp với các vùng nước tiểu bang nơi các loài thực vật biển tạo thành cộng đồng thực vật thống trị. Ranh giới về phía biển Florida tại Vịnh Mexico là 3 dặm biển (9 hải lý) và cách Đại Tây Dương 3 hải lý. |
3. Kết quả nghiên cứu
Ở Việt Nam chưa quy định thống nhất về ranh giới phạm vi vùng bờ, điều này làm cản trở không nhỏ tới công tác quản lý, BVMT và khai thác, sử dụng nguồn lợi, gây tác động xấu tới môi trường và làm cạn kiệt nguồn tài nguyên vùng bờ. Tuy nhiên, để góp phần hoàn thiện công tác quản lý tổng hợp về biển và hải đảo cần phải tính đến những đặc điểm, đặc thù của vùng biển Việt Nam, của các ngành liên quan cũng như thực tế công tác quản lý tổng hợp vùng bờ. Việc xác định phạm vi vùng bờ được căn cứ theo nhiều tiêu chí khác nhau tùy thuộc và thực tiễn quản lý của mỗi ngành và mỗi địa phương vùng ven biển.
3.1. Nguyên tắc xác định phạm vi vùng bờ
Quản lý tổng hợp vùng bờ được dựa trên các tiền đề và nguyên tắc cơ bản. Các nguyên tắc được trình bày dưới đây là cơ sở lý luận và thực tiễn do Cục Công viên quốc gia Mỹ đề xuất và đã được nhiều quốc gia trên thế giới nghiên cứu, sử dụng để xác định phạm vi vùng bờ trong quản lý tổng hợp và cũng là các gợi ý trong việc lựa chọn các tiêu chí phục vụ xác định phạm vi vùng bờ mà bài báo đề xuất trong nghiên cứu này. Các nguyên tắc cụ thể bao gồm:
Nguyên tắc 1: Tài nguyên vùng bờ là một hệ thống tài nguyên thống nhất.
Nguyên tắc 2: Nước là thành phần cốt lõi trong các hệ thống tài nguyên ven biển.
Nguyên tắc 3: Vấn đề cốt lõi là tài nguyên đất và nước ven biển phải được quy hoạch và quản lý thống nhất.
Nguyên tắc 4: Khu vực xung quanh mép nước là trọng tâm của các chương trình quản lý vùng bờ.
Nguyên tắc 5: Phạm vi quản lý vùng bờ phải dựa trên vấn đề thực tế và cụ thể.
Nguyên tắc 6: Trọng tâm của quản lý các nguồn tài nguyên ven biển là để bảo tồn các nguồn tài sản chung.
Nguyên tắc 7: Ngăn ngừa thiệt hại do thiên tai và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên phải được tích hợp vào các chương trình QLTHVB.
Nguyên tắc 8: Tất cả các cấp chính quyền trong một quốc gia phải tham gia vào quy hoạch và quản lý vùng bờ.
Nguyên tắc 9: Cách tiếp cận phát triển thích ứng với tự nhiên, đặc biệt phù hợp cho vùng bờ biển.
Nguyên tắc 10: Các hình thức đánh giá lợi ích KT - XH và sự tham gia của cộng đồng trong các chương trình quản lý tổng hợp vùng bờ.
Nguyên tắc 11: Bảo tồn để sử dụng bền vững là một mục tiêu chính của quản lý tài nguyên ven biển.
Nguyên tắc 12: Quản lý sử dụng đa mục tiêu là phù hợp đối với hầu hết các hệ thống tài nguyên ven biển.
Nguyên tắc 13: Sự tham gia đa ngành là cần thiết để sử dụng bền vững tài nguyên ven biển.
Nguyên tắc 14: Phương thức quản lý tài nguyên truyền thống cần được tôn trọng.
Nguyên tắc 15: Cách tiếp cận đánh giá tác động môi trường là cần thiết để quản lý vùng bờ hiệu quả.
Các nguyên tắc nêu trên góp phần hỗ trợ việc xác định phạm vi vùng bờ phục vụ công tác quản lý tổng hợp tài nguyên và BVMT biển và hải đảo.
3.2. Đề xuất các tiêu chí xác định phạm vi đường bờ ở Việt Nam
a) Tiêu chí về địa chất, địa lý và địa mạo [6,9]
Cơ sở xác định ranh giới phạm vi vùng bờ theo tiêu chí địa chất, địa lý và địa mạo bao gồm:
- Địa hình là sản phẩm có thể quan sát thấy của mối tác động tương hỗ giữa các nhân tố nội sinh và ngoại sinh mà trong đó có tác động của con người, giữa các nhân tố tích cực và nhân tố thụ động... Các nhân tố này luôn thay đổi, do đó địa hình cũng luôn biến động theo cả không gian và thời gian. Những biến động này diễn ra thường xuyên, liên tục và thể hiện rất rõ đối với địa hình bờ biển.
- Địa hình được xem là “nền rắn” của mọi hệ sinh thái. Chức năng của địa hình trong bất kể hệ sinh thái nào cũng là kiểm soát sự phân bố năng lượng và vật chất trong đó. Địa hình là một dạng của vật chất, nhưng nó cũng không ngừng vận động. Sự biến đổi có thể diễn ra từ từ hoặc đột ngột. Các nhân tố gây ra sự biến đổi có thể là tự nhiên hoặc do tác động của con người. Khi địa hình bị biến đổi thì sự phân bố năng lượng và vật chất trong hệ sinh thái cũng bị thay đổi theo. Cuối cùng hệ sinh thái cũng bị thay đổi. Những thay đổi đột ngột có thể chịu tác động của con người.
- Đơn vị sinh thái biển với quy mô được xác định dựa trên các đặc điểm địa văn học, địa hình, môi trường sống, các đặc điểm cảnh quan biển…;
- Điều kiện tự nhiên, cảnh quan của vùng ven bờ;
- Nhận thức, tri thức bản địa và truyền thống về vùng ven bờ và các vấn đề của vùng này;
- Các vùng chức năng cùng chia sẻ cơ sở hạ tầng, giao thông, và quyền sử dụng dùng chung khác;
- Các vấn đề trong khai thác, sử dụng tài nguyên, các vấn đề về môi trường của vùng ven bờ.
Như vậy, các yếu tố địa chất, địa lý và địa mạo được xem là một loại tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa quyết định đến việc xây dựng kế hoạch quản lý và quy hoạch vùng bờ biển. Mặt khác, quá trình thay đổi, tiến hoá của các yếu tố địa chất, địa lý và địa mạo cũng gây ra tai biến với hậu quả không lường trước được (như làm sập đường xá, kho tàng, bến cảng, mất đất, bồi lấp luồng tàu…). Từ đó có thể thấy, tiêu chí địa lý, địa mạo là một trong những tiêu chí quan trọng để xác định ranh giới phạm vi vùng bờ.
b) Tiêu chí về khí hậu, thủy hải văn [7]
Tiêu chí sử dụng các phương pháp liên quan tới khí hậu, thủy hải văn để xác định phạm vị vùng bờ làm cơ sở cho việc lựa chọn khoảng cách cả ra phía biển và vào trong lục địa.
*) Phạm vi vùng bờ vào phía trong sông
Vùng bờ được xác định là khu vực chịu tác động lớn nhất của các yếu tố thủy động lực biển và nhỏ nhất của các yếu tố thủy động lực sông, cụ thể là tương tác giữa dòng chảy sông và dòng triều chảy ngược từ biển vào trong sông, cụ thể như sau:
- Giới hạn xa nhất của dao động thủy triều vào trong sông: Theo hướng này, vị trí xa nhất tại nơi dòng chảy sông nhỏ nhất và thủy triều biển lớn nhất.
- Giới hạn xa nhất vào trong sông là điểm “0” của dòng triều: Điểm “0” dòng triều là điểm tại đó vận tốc dòng chảy ngược từ biển vào bằng với dòng chảy từ sông ra và tại điểm đó có Vdc = 0, xét trong trường hợp lưu lượng nước sông là nhỏ nhất và thủy triều biển là lớn nhất. Dấu hiệu này cũng đồng nghĩa với giới hạn mặn xâm nhập sâu nhất vào trong sông, có thể lấy giới hạn ranh giới mặn về phía sông là 4g/l.
*) Phạm vi vùng bờ ra phía biển
Phạm vi vùng bờ ra phía biển xét trên khía cạnh thủy hải văn, bài báo đề xuất các tiêu chí như sau:
- Giới hạn của gió đất: vùng ven biển được xác định ở khu vực có tốc độ gió dao động từ 5-8 m/s, thời gian duy trì liên tục trong 10 phút. Theo các nghiên cứu, giới hạn ứng với vận tốc trên ở nước ta khoảng từ 3 km đến 4,8 km, tùy theo từng vùng.
- Tại điểm mực nước triều thiên văn thấp nhất trung bình.
Khoảng cách xa gần theo tiêu chí này phụ thuộc vào độ lớn của thủy triều và độ dốc của bãi biển.
Vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và đồng bằng sông Mekong, nơi có độ lớn thủy triều từ 3.0 đến 3.5m và độ dốc bãi biển rất nhỏ từ 1:500 dến 1:2.000 thì khoảng cách ngang theo đường vuông góc với bờ biển từ mực nước biển trung bình tới mực nước chân triều thấp nhất trong chu kỳ thiên văn có thể lên đến 10 - 12 km.
Dải bờ biển trung bộ từ Thanh Hóa tới Bình Thuận, do độ dốc đáy biển lớn, lại chủ yếu là bờ biển cát, không có hoặc rất ít phù sa sông thì khoảng cách ngang này không lớn chỉ dưới 5 km, tùy thuộc vào độ lớn triều ở mỗi đoạn bờ.
- Độ sâu nước ứng với mực nước biển trung bình nhiều năm tại vùng sóng bắt đầu vỡ;
Theo Nghị định số 40/2016/NĐ-CP ngày 15/5/2016 của Chính phủ có quy định vùng biển ven bờ có ranh giới trong là đường mép nước biển thấp nhất trung bình nhiều năm (18,6 năm) và ranh giới ngoài cách đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm một khoảng cách 6 hải lý do Bộ TN&MT xác định và công bố. Theo Quyết định này thì có thể chọn đường đẳng sâu bằng nửa bước sóng, thường nằm giữa 30 - 50 m nước, tại khu vực này sóng biển có thể tác động trực tiếp làm biến đổi địa hình đáy biển.
- Tính tới điểm sóng bắt đầu vỡ.
Theo quan điểm này, việc xác định vùng biển ven bờ dựa vào các đặc trưng sóng, theo đó lấy giới hạn độ sâu bằng một nửa chiều dài sóng ở vùng nước sâu tính theo công thức L0 = 1.56 T2p. Chu kỳ sóng khí hậu ở biển Việt Nam từ 6 đến 8s, tương ứng với chiều dài sóng từ 60 - 100 m, hay giới hạn ngoài về phía biển lấy tại vị trí có độ sâu nước từ 30 - 50 m.
- Tính tới điểm nước ngọt phát triển ra xa nhất trong điều kiện dòng chảy trong sông lớn nhất và các yếu tố biển ổn định nhất.
Điều kiện biển ổn định ở đây được đặc trưng bởi sóng, gió khí hậu, không xét trường hợp có bão. Trong điều kiện này nước sông được xét là trường hợp lớn nhất và thường mang theo một lượng phù sa lớn, nên khi gặp nước biển sẽ tạo nên kiểu front trên mặt có dạng song song với bờ và có thể phân biệt ranh đục do nước sông chảy ra. Theo quan điểm này, ở 2 đồng bằng do dòng chảy lớn, đáy biển nông hơn nên giới hạn ra phía biển xa hơn.
Vai trò của hải lưu biển và tương tác sông biển cũng tạo ra các loại front này, điển hình ở khu vực trung bộ và nam bộ.
Các dấu hiệu về khí hậu, thủy hải văn sẽ là một nhóm tiêu chí giúp các nhà khoa học có cơ sở, kết hợp với các tiêu chí khác để xác định phạm vi vùng bờ theo phương ngang thuộc vùng biển nước ta.
c) Tiêu chí về đường đẳng sâu/độ sâu nước [3]
Tiêu chí đường đẳng sâu hay độ sâu nước được sử dụng để xác định phạm vi phía biển của vùng bờ và có liên hệ chặt chẽ với chế độ khí hậu, thủy động lực của biển.
Căn cứ vào tài liệu quan trắc và phổ sóng đặc trưng trong vùng biển nước ta thì chu kỳ sóng phổ biến từ 6 đến 8(s), tương ứng với chiều dài sóng L = 60 - 100 m. Giới hạn về phía biển được tính từ điểm sóng bắt đầu vỡ lần đầu tiên khi đi vào bờ. Độ sâu tại khu vực này bằng khoảng 0.5 L hay h = 30 - 50 m.
Đối với vùng cửa sông lớn như sông Hồng và các sông lớn thuộc hệ thống Mekong có thể căn cứ vào front độ đục do phù sa của dòng chảy sông trong trường hợp lũ lớn nhất tổ hợp với mực nước triều thấp nhất để xác định ranh giới phía ngoài. Với các số liệu quan trắc và một số nghiên cứu cũng cho kết quả độ sâu nước trong khoảng 30 - 40 m.
Tuy nhiên, đối với các đoạn bờ đá, nơi độ sâu nước biển ngay tại bờ đá vào khoảng 30 - 40 m như khu vực đèo Hải Vân, Đèo Cả… thì phạm vi vùng bờ được xác định theo quy định của Nghị định số 40/2016/NĐ-CP ngày 15/5/2016, lấy ra phía ngoài biển 1 khoảng cách 6 hải lý tính từ bờ.
d) Tiêu chí về các hoạt động KT - XH
Tiêu chí về các hoạt động KT - XH được đề xuất bao gồm:
- Các chỉ tiêu tổng hợp: Các chỉ tiêu về quản trị biển và đại dương, quản lý vùng bờ theo chuẩn mực quốc tế đạt mức thuộc nhóm nước trung bình cao trở lên trên thế giới. Hầu hết các hoạt động phát triển KT - XH liên quan đến biển, đảo được thực hiện theo nguyên tắc quản lý tổng hợp phù hợp với hệ sinh thái biển.
- Về kinh tế biển: các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP cả nước; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65 - 70% GDP cả nước. Các ngành kinh tế biển phát triển bền vững theo các chuẩn mực quốc tế; kiểm soát khai thác tài nguyên biển trong khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển.
e) Tiêu chí về môi trường biển [3,8]
Vùng bờ là khu vực đang diễn ra các hoạt động KT - XH rất sôi động. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực các hoạt động đó cũng tiềm ẩn các tác động xấu tới môi trường sinh thái. Tính cạnh tranh trong việc khai thác, sử dụng tài nguyên cũng tăng lên; mâu thuẫn giữa các ngành gây khó khăn trong công tác quản lý.
Một rủi ro rất lớn là biến đổi khí hậu, nước biển dâng; tần suất của các tai biến thiên nhiên sẽ tăng lên gây xói lở bờ biển; nước biển dâng và kéo theo xâm nhập mặn sâu hơn về phía lục địa; bão tăng cả về số lượng và cường độ gây mưa lũ và các hiện tượng thời tiết bất thường; nắng nóng, hạn hán gia tăng. Tất cả các tai biến này sẽ là thách thức rất lớn cho việc qui hoạch phát triển ở vùng bờ. Do vậy, tiêu chí về môi trường có thể được xem xét trong xác định phạm vi vùng bờ, gồm: suy thoái sinh cảnh, hệ sinh thái biển, ven biển; ô nhiễm môi trường nước biển ven bờ; sự cố môi trường biển; tổn thương tài nguyên, môi trường biển do thiên tai và biến đổi khí hậu. Các tiêu chí cụ thể, bao gồm:
- Các khu vực được bảo vệ bởi luật quốc gia và quốc tế hay các công ước về môi trường biển;
- Những khu vực biển dễ bị tổn thương, suy thoái sinh cảnh, hệ sinh thái biển, ven biển;
- Các khu vực biển có nguy cơ rủi ro ô nhiễm cao hoặc rất cao;
- Khu vực biển nhạy cảm với tràn dầu: các đầm lầy, đầm ngập mặn và rừng ngập mặn đặc biệt nhạy cảm với dầu tràn vì dầu làm tổn hại đến hệ động thực vật và rất khó làm sạch; các khu vực được sử dụng bởi các loài nhạy cảm như chim biển và rái cá - những sinh vật này bị giết hại dễ dàng khi chúng bi bao phủ bởi lớp dầu - đây là những loài nhạy cảm đặc biệt với dầu.
g) Tiêu chí về pháp lý
Theo cách nhìn nhận này, Vùng bờ được xác định dựa trên các tiêu chí về pháp lý, bao gồm:
- Công ước Luật biển của Liên hợp quốc năm 1982 (UNCLOS 1982) xác định vùng nội thủy, lãnh hải, thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế và vùng đặc quyền nghề cá được xem xét là các biến lượng mà theo đó việc xác định phạm vi vùng bờ cần cân nhắc, xem xét.
- Các Hiệp định phân định ranh giới trên biển Việt Nam có biên giới biển chung với Trung Quốc, Philippin, Brunei, Singapo, Malaixia, Inđônêxia và Campuchia, như: Hiệp định về vùng nước lịch sử với Campuchia năm 1982; Hiệp định phân định biển với Thái Lan năm 1997; Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc năm 2000; Hiệp định phân định thềm lục địa với Inđônêxia năm 2003...
- Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; Nghị định số 40/2016/NĐ-CP ngày 15/5/2016 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; Nghị định số 33/2010/NĐ-CP về quản lý khai thác thủy sản của tổ chức, cá nhân; Quyết định số 158/2007/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quản lý tổng hợp dải ven biển vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020...
Như vậy, các tiêu chí về pháp lý được bài báo đề xuất tuân thủ theo các quy định của điều ước quốc tế, các thỏa thuận của khu vực mà Việt Nam tham gia và các văn bản pháp luật của quốc gia.
4. KẾT LUẬN
Trên cơ sở tổng hợp kinh nghiệm của một số quốc gia, như: Mỹ, Tây Ban Nha, Cu Ba.. trong xây dựng bộ tiêu chí phục vụ xác định phạm vi vùng bờ, bài báo đã đưa ra được nguyên tắc cơ bản thông qua đó đề xuất các tiêu chí/tiêu chuẩn để xác định phạm vi vùng bờ nói chung, bao gồm: các tiêu chí về địa lý, địa mạo và địa chất; về khí hậu, thủy văn và hải dương; tiêu chí đường đẳng sâu; tiêu chí về hệ thống TN&MT biển; tiêu chí về các hoạt động KT - XH, khai thác và sử dụng vùng bờ và tiêu chí liên quan tới cơ sở pháp lý. Tuy theo điều kiện, đặc điểm của từng vùng, khu vực biển mà việc vận dụng các tiêu chí/tiêu chuẩn linh hoạt trong việc xác định phạm vi vùng bờ để đạt được kết quả phù hợp và hiệu quả. Nhìn chung bộ tiêu chí đề xuất khá rõ ràng, dễ sử dụng và có tính khả thi ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo hiện trạng biển và vùng bờ Việt Nam, 2020;
2. Học Viện chinh sách và phát triển, Đề tài KC.09.26/16-20 (2019), Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia, Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế biển bền vững và chính sách đột phá phát triển các vùng kinh tế trọng điểm và những vấn đề rút ra cho Việt Nam, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân. Hà Nội, 269tr; 24.
3. Lê Đức An và Uông Đình Khanh (2012), Địa mạo Việt Nam: Cấu trúc - Tài nguyên - Môi trường. Nxb. KHTN&CN. Hà Nội. 659 tr.
4. GS.TS. Vũ Minh Cát và nnk (2022) Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn xác định phạm vi vùng bờ phục vụ quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường vùng bờ tại Việt Nam, mã số TNMT.2018.06.07.
5. Lê Đức Tố (chủ biên), Lê Đức An, Nguyễn Biểu, Hoàng Trọng Lập, Lê Như Lai, Đặng Ngọc Thanh, Nguyễn Ngọc Thụy, Nguyễn Thế Tiệp (2003), Biển Đông. Tập I: Khái quát về Biển Đông. Nxb. ĐHQG Hà Nội, 230 tr.
6. TS. Nguyễn Lê Tuấn (2011), Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu luận cứ khoa học và thực tiễn xác định ranh giới và phân cấp quản lý biển và hải đảo”, mã số TNMT.06.07;
7. Nguyễn Thế Tưởng và nnk (2010), Nghiên cứu cơ sở khoa học, pháp lý và phân vùng quản lý tổng hợp vùng ven bờ biển Việt Nam, Viện Tài nguyên Môi;
8. Trần Đức Thạnh, Nguyễn Hữu Cử, Đỗ Công Thung, Trần Đình Lân, Đinh Văn Huy, Phạm Hoàng Hải (2011), Định hướng quản lý tổng hợp vùng bờ biển Bắc Bộ, Nxb. KHTN&CN. Hà Nội, 250 tr.
9. Trần Đức Thạnh, Nguyễn Chu Hồi, Nguyễn Cẩn, Nguyễn Thanh Sơn, Trịnh Phùng, Nguyễn Văn Tạc (1997), Đặc điểm địa mạo biển Việt Nam, TN&MT biển. Tập IV. Nxb. KH&KT. Hà Nội. Tr. 7-28; 13.
10. United Nations, DIESA (1982), Coastal Area Management and Development, Pergamon Press, Oxford
11. Smith, H.D. & Lalwani, C.S. (1984), The North sea: sea use management and planning, University of Wales, Institute of Science and Technology, Cardiff
12. Georgy Gogoberidze, Coastal Zone Delimitation Địa chỉ Website: http://www.theseusproject.eu/wiki/Coastal_zone_delimitation
13. Brenner J, Jime´ nez JA, Sarda` R. Definition of homogeneous environmental management units for the Catalan coast. Environmental Management 2006; 38: 993-1005.
14. Pe´rez ML, Bueno F, Benı´tez D, Calvo J, Barraga´ n JM. Criterios de Gestio´ nde la Zona de Servidumbre de Proteccio´ n del Dominio Pu´ blico Marı´timo-Terrestre. Sı´ntesis. Agreement between Universidad de Ca´diz and Consejerı´a de Medio Ambiente de la Junta de Andalucı´a; 2004.
15. The Coastal Zone Management Act of 1972 (CZMA); Coastal zone - NOAA Office for Coastal Management, 2012.
ThS. Hoàng Trưởng1, ThS. Bùi Thị Thủy1
1Viện Nghiên cứu biển và hải đảo
(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số Chuyên đề Tiếng Việt II/2022)
CRITERIA FOR DETERMINATION OF THE COASTAL RANGE - INTERNATIONAL EXPERIENCE AND PROPOSED FOR VIETNAM
Hoang Truong, Bui Thi Thuy
Vietnam Institute of Seas and Island
Abstract
The coastal zone is the intersection between the land and the sea, including the sea near the shore and the land adjacent to the water's edge. The extent of the coastal zone can extend inland and out to sea to varying degrees, depending on the development goals and needs of each country, region and province. Researchers worldwide have shown that there are many proposed criteria/standards to determine the extent of the coastal zone. In Vietnam, the Law on natural resources and environment of sea and islands stipulates that the extent of the coastal zone is determined based on natural and socio-economic conditions of each area in the coastal zone; characteristics of the process of interaction between the mainland or the island and the sea; requirements for environmental protection in coastal areas, response to climate change, sea level rise and some other characteristics in coastal areas. However, the above criteria/standards are still general and need to be concretized and clarified. Therefore, in this article, appropriate criteria/standards will be proposed to determine the extent of the coastal zone in Vietnam.
Key word: Coastal zone, coastal boundary, coastal range.