23/04/2021
TÓM TẮT
Kinh tế tuần hoàn là giải pháp tiềm năng để sử dụng tốt hơn các nguồn lực, giúp giải quyết bài toán giữa lợi ích kinh tế và môi trường, trong khi mô hình kinh tế tuyến tính hiện nay là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng thiếu hụt các nguồn tài nguyên và gây ra ô nhiễm môi trường. Được xác định dựa trên nền tảng công nghệ để tạo ra lợi ích về kinh tế trong khi giảm bớt áp lực lên môi trường, mô hình kinh tế tuần hoàn đã nhận được sự đón nhận của các tổ chức trong khu vực công và khối tư nhân ngày càng gia tăng. Mục đích của nghiên cứu này hướng đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) ở Việt Nam có thể tiếp cận được và áp dụng hiệu quả mô hình kinh tế tuần hoàn. Thông qua điều tra online và khảo sát thực tế tại 24 doanh nghiệp (DN), nghiên cứu đã phân tích nguồn lực sẵn có cũng như các vấn đề thách thức trong việc thiết lập mô hình kinh tế tuần hoàn dựa trên nội lực của DNVVN tại Việt Nam. Phát triển các mối quan hệ tập thể dựa trên mạng lưới kết hợp với quản trị thể chế là một chiến lược cần thiết và hiệu quả để hướng tới một mô hình kinh tế bền vững với môi trường và phúc lợi cho xã hội.
Từ khóa: Kinh tế tuần hoàn, DN vừa và nhỏ, Việt Nam.
Nhận bài: 12/3/2021 Ngày chỉnh sửa: 15/3/2021 Ngày duyệt đăng: 18/3/2021
DNVVN là một bộ phận quan trọng trong mô hình kinh tế tư nhân và chiếm tỷ lệ lớn trong cộng đồng DN Việt Nam. Năm 2019, cả nước có khoảng 541.753 DNVVN đang hoạt động trong mô hình kinh tế, với tổng số vốn đăng kí khoảng 130 tỷ USD [1]. Hàng năm, các DNVVN đóng góp 40% GDP, đóng góp 33% giá trị sản lượng công nghiệp, 30% giá trị hàng hóa xuất khẩu và thu hút gần 60% lao động [2]. Tuy nhiên, do quy mô nhỏ, nên hoạt động của các DN này gặp khá nhiều khó khăn như thiếu nguồn vốn để đầu tư vào máy móc, công nghệ hiện đại phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, thiếu kinh nghiệm điều hành DN, khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường ngay trên thị trường nội địa còn hạn chế [3].
Ở Việt Nam, hiểu biết của các bên liên quan về triết lý kinh tế tuần hoàn (KTTH) và các lợi ích của nó vẫn còn rất hạn chế [4]. Các DNVVN hiện nay chủ yếu sản xuất dựa trên mô hình kinh tế tuyến tính, trên nguyên lý khai thác tài nguyên từ môi trường tự nhiên làm đầu vào cho hệ thống kinh tế, thông qua quá trình sản xuất, tiêu dùng và cuối cùng thải loại ra môi trường [5]. Do đó, tính bền vững của các DN (sự phát triển đảm bảo về mặt kinh tế, xã hội và môi trường) là vấn đề chính của các DN này vì họ chỉ chú trọng đến việc phát triển kinh tế, việc tuân thủ các mục tiêu môi trường và xã hội mong muốn theo quy định và nhu cầu toàn cầu ngày càng trở nên khó khăn hơn. Bên cạnh đó, sự liên kết giữa các DNVVN ở Việt Nam khá yếu, có rất ít mối liên hệ giữa các DN nhỏ và DN có quy mô lớn còn yếu hơn.
Nghiên cứu này hướng tới đánh giá nhận thức và những lỗ hổng về kiến thức và kỹ năng của các DNVVN ở Việt Nam đối với mô hình KTTH; phân tích các vấn đề và thách thức đối với các DN trong quá trình chuyển đổi toàn bộ mô hình kinh tế theo hướng trở nên bền vững hơn, thông qua sự tham gia của tất cả các bên liên quan.
KTTH (Circular Economy-CE) là một hệ thống kinh tế có tính tái tạo và khôi phục thông qua các kế hoạch và thiết kế có tính chủ động, nó thay thế khái niệm “kết thúc vòng đời” của vật liệu bằng khái niệm “khôi phục, chuyển dịch theo hướng sử dụng năng lượng tái tạo, không dùng các hóa chất độc hại gây tổn hại tới việc tái sử dụng và hướng tới giảm thiểu chất thải thông qua việc thiết kế vật liệu, sản phẩm, hệ thống kỹ thuật và cả mô hình kinh doanh trong phạm vi của hệ thống đó [6]. KTTH là mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ nhằm giảm khai thác nguyên liệu, vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải phát sinh và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường [7]. Đây là một chiến lược phát triển bền vững đang được đề xuất để giải quyết các vấn đề cấp bách của suy thoái môi trường và khan hiếm tài nguyên, trong đó tài nguyên đầu vào, chất thải, khí thải và năng lượng được tối thiểu hóa ngay từ trong quy trình sản xuất và tiêu dùng từ thiết kế, bảo trì, sửa chữa, tái sử dụng, tái sản xuất, tân trang và tái chế lâu dài dựa trên động lực kinh tế, hướng đến một mô hình kinh tế không phát thải. KTTH dựa trên ba nguyên tắc chính bao gồm: Bảo tồn và tăng cường vốn tự nhiên bằng cách kiểm soát nguồn dự trữ hữu hạn và cân bằng các dòng tài nguyên tái tạo; tối ưu hóa năng suất tài nguyên bằng cách luân chuyển các sản phẩm, thành phần và vật liệu ở mức độ cao nhất; tăng cường hiệu quả của hệ thống bằng cách giảm đến mức tối thiểu các ngoại ứng tiêu cực như ô nhiễm nước, không khí, đất và tiếng ồn, chất độc hại… [8].
Từ việc nhìn thấy những lợi ích của mô hình KTTH như sử dụng hiệu quả chất thải đầu ra, tiết kiệm tài nguyên đầu vào và tạo ra sản phẩm hàng hóa cạnh tranh trên thị trường, giúp mang lại hiệu quả sản xuất kinh doanh cho DN thì nhiều DN lớn cũng đã áp dụng KTTH và gần đây đã bắt đầu khuyến khích chuỗi cung ứng của họ cũng áp dụng KTTH. Tuy nhiên, việc tiếp nhận KTTH ở các DNVVN rất chậm. Các hoạt động liên quan đến KTTH mà các DNVVN có khả năng thực hiện như giảm thiểu chất thải, lập kế hoạch về việc sử dụng năng lượng, thiết kế các sản phẩm và dịch vụ, sử dụng năng lượng tái tạo và sử dụng nước hợp lý.
Nghiên cứu này thông qua khảo sát mối tương quan giữa các lĩnh vực hành động và hiệu quả bền vững đang được áp dụng tại các DNVVN, đối chiếu với những hành động và hiệu quả của mô hình cấu trúc KTTH được trình bày trong hình 1. Từ đó sẽ xác định rõ các vấn đề và thách thức cần giải quyết để áp dụng phù hợp KTTH vào các DNVVN thông qua việc xây dựng chiến lược phù hợp nhất, xác định nguồn lực và phát triển năng lực.
Hình 1. Mối tương quan giữa các lĩnh vực hoạt động của mô hình KTTH [9]
Nghiên cứu đã áp dụng phương pháp thu thập dữ liệu từ các DNVVN của Việt Nam, bao gồm 300 DN được khảo sát trực tuyến (online) và từ 24 DN được khảo sát trực tiếp. Kết quả khảo sát online những DNVVN Việt Nam cùng các DNVVN của các nước trong khu vực khác như Ấn Độ, Bangladesh, Thái Lan… đã được công bố trong nghiên cứu trước [3]. Nghiên cứu này tập trung vào kết quả khảo sát và phỏng vấn trực tiếp 24 DNVVN trên địa bàn Hà Nội và Đà Nẵng. Mục tiêu của khảo sát này hướng tới phân tích mối quan hệ giữa các thành phần của mô hình KTTH (thiết kế, cung ứng, sản xuất, phân phối, tiêu dùng và thu hồi sản phẩm) với hiệu quả bền vững (kinh tế, môi trường và xã hội) của các DNVVN ở Việt Nam theo mô hình cấu trúc như hình 1. Cấu trúc của khảo sát gồm 84 câu hỏi tập trung trong 5 trường thông tin chính bao gồm:
Đồng thời trong quá trình khảo sát, DN cũng được giải thích về mô hình vận hành và những lợi ích của KTTH, nêu ý kiến về mức độ đánh giá của họ đối với các hoạt động có tính tuần hoàn của mô hình kinh tế.
Từ dữ liệu khảo sát, sử dụng một số kỹ thuật phân tích và xử lý số liệu phổ biến để đánh giá nhận thức và sự sẵn sang của daonh nghiệp về các hoạt động liên quan đến các lĩnh vực hành động trong mô hình KTTH. Kết quả điều tra cũng tạo điều kiện giúp DN nhận thức sâu hơn tầm ảnh hưởng của các cơ hội và rào cản, cho phép hiểu biết vai trò của việc giải quyết các thách thức về sức khoẻ tinh thần cộng đồng và sức khỏe tinh thần của người lao động tại nơi làm việc nhằm mục đích áp dụng cách tiếp cận về KTTH tại Việt Nam.
Trong số các DNVVN tham gia khảo sát điền phiếu online, có 24 DN được lựa chọn để khảo sát và phỏng vấn trực tiếp. Tiêu chí lựa chọn DN để khảo sát trực tiếp bao gồm: Tính đại diện cho ngành nghề sản xuất kinh doanh, quy mô DN và sự tự nguyện tham gia nghiên cứu. Kết quả nhân khẩu học của 24 DN trả lời hữu dụng với đặc điểm của người trả lời được thể hiện trong bảng 1.
Bảng 1. Nhân khẩu học của DN
Đặc điểm của đối tượng được phỏng vấn |
Số lượng |
Tỉ lệ (%) |
|
Loại hình DN |
Cơ sở sản xuất và chế biến |
13 |
54.2 |
Nhựa, in bao bì |
3 |
12.5 |
|
Sản xuất hàng may mặc |
3 |
12.5 |
|
Gỗ và giấy |
3 |
12.5 |
|
Loại hình dịch vụ |
1 |
4.2 |
|
Xử lý môi trường |
1 |
4.2 |
|
Tổng |
24 |
100.0 |
|
Vị trí/ Chức vụ người trả lời |
Cấp giám đốc |
10 |
41.7 |
Cấp quản lý |
7 |
29.2 |
|
Hành chính |
5 |
20.8 |
|
Nhân viên |
2 |
8.3 |
|
Tổng |
24 |
100.0 |
|
Số lượng nhân viên |
<10 |
3 |
12.5 |
10-50 |
7 |
29.2 |
|
51-100 |
8 |
33.3 |
|
101-250 |
6 |
25.0 |
|
Tổng |
24 |
100.0 |
|
% doanh thu tài chính tăng lên trong 5 năm vừa qua |
Rất cao (>20%) |
2 |
8.3 |
Cao (10-20%) |
3 |
12.5 |
|
Trung bình (5-10%) |
14 |
58.3 |
|
Thấp (<5%) |
4 |
16.7 |
|
Âm (<0%) |
1 |
4.2 |
|
Tổng |
24 |
100.0 |
|
Số DN có chứng nhận môi trường |
Có |
6 |
25.0 |
Không |
18 |
75.0 |
|
Tổng |
24 |
100.0 |
|
Số DN có khóa đào tạo phát triển kĩ năng về Quản lý môi trường cho nhân viên trong công ty |
Có |
4 |
16.7 |
Không |
20 |
83.3 |
|
Tổng |
24 |
100.0 |
|
Dự án quản lý môi trường đã thực hiện trong ba năm qua |
Có |
2 |
8.3 |
Không |
22 |
91.7 |
|
Tổng |
24 |
100.0 |
|
Dự án về phúc lợi xã hội tại công ty trong ba năm qua |
Có |
7 |
29.2 |
Không |
17 |
70.8 |
|
Tổng |
24 |
100.0 |
Hiện trạng hoạt động của các DNVVN được tìm hiểu qua việc thiết lập mối tương quan giữa các lĩnh vực hành động của KTTH với hiệu quả bền vững. Khảo sát được thực hiện theo các mức đánh giá từ “Rất không đồng ý - Không đồng ý - Trung lập - Đồng ý - Rất đồng ý” tương ứng với thang điểm từ 1-2-3-4-5 được tổng hợp dưới dạng biểu đồ. Kết quả được thế hiện trên hình 2.
Các hoạt động có tính chu kì của KTTH Cơ hội và rào cản cho việc áp dụng KTTH
Hiệu quả bền vững của việc áp dụng KTTH Sức khỏe cộng đồng và thách thức về sức khỏe tinh thần tại nơi làm việc
Hình 2. Kết quả khảo sát DN
Kết quả khảo sát cũng cho thấy những DN này đã có nhận thức ban đầu về những khái niệm liên quan đến mô hình KTTH, tuy nhiên mối quan tâm chưa thực sự được chú trọng khi điểm đánh giá trung bình của các hoạt động này chỉ ở mức 3,57. Các DN được khảo sát đều hiểu những thách thức gây ra bởi sự khan hiếm tài nguyên thiên nhiên và biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng tới doanh thu và tăng trưởng kinh doanh của mình. Tuy nhiên, chưa có DN nào trong số này nói rằng họ có những kế hoạch để nâng cao nhận thức và áp dụng thực hành sản xuất thân thiện với môi trường hay những dự án liên quan đến việc quản lý môi trường hoặc phúc lợi xã hội trong công ty của mình. Điều này giải thích tại sao các công ty này vẫn chưa có những kế hoạch hành động cụ thể để thực hiện các giải pháp kinh tế tuần hoàn, hướng tới xây dựng một DN bền vững trong dài hạn. Trong đó, những đánh giá cụ thể của DN về từng hoạt động có tính chu kì trong mô hình KTTH được thể hiện trên hình 3.
Hình 3. Mức độ đánh giá về các hoạt động có tính chu kì của KTTH
Mặc dù thấy được những cơ hội của việc áp dụng KTTH nhưng song hành với đó thì DN cũng gặp phải những thách thức đáng kể của việc thay đổi mô hình kinh doanh hiện tại (mức đánh giá 3.7). Những cơ hội mà DN nhìn thấy cũng chính là lợi ích khi họ áp dụng KTTH vào trong sản xuất, kinh doanh của mình. Điều đó không chỉ đem lại hiệu quả về kinh tế, nâng cao hình ảnh của DN, đồng thời mang lại những ảnh hưởng tích cực tới môi trường và xã hội hiện nay, là động lực chính thúc đẩy các DN thay đổi mô hình sản xuất kinh doanh. Trong đó, mức độ đánh giá cụ thể của DN về những tác động của KTTH được thể hiện trên hình 4.
Hình 4. Mức độ đánh giá về tác động của mô hình KTTH
Các DNVVN được khảo sát hiện nay đều đang vận hành theo mô hình kinh tế tuyến tính, dựa trên nguyên lý Khai thác - Sử dụng - Thải bỏ. Các DN này ít quan tâm đến các vấn đề về lượng khí thải cacbon trong quá trình sản xuất đối với môi trường và thường không chịu trách nhiệm về các sản phẩm của họ sau khi chúng được chuyển sang giai đoạn phân phối, sử dụng, thậm chí không có ý định thu hồi những sản phẩm đó sau quá trình sử dụng của khách hàng. Đây là một trong những nguyên nhân gây lãng phí nguồn tài nguyên tại các DN này khi rác thải không được quay vòng trở lại thành tài nguyên, đồng thời, khiến cho các ngành sản xuất tạo ra nhiều khí thải cacbon hơn và góp phần vào quá trình biến đổi khí hậu.
Các DN được phỏng vấn cho biết rằng họ chỉ đủ khả năng thực hiện thiết kế sinh thái nếu nó có khả thi về mặt kinh tế, bởi sự cạnh tranh gay gắt trong quá trình kinh doanh. Do đó, quá trình sản xuất hiện tại của các DN hầu hết chưa hướng đến mô hình phát triển bền vững. Các DN này có rất ít sự lựa chọn vật liệu vì các thiết kế và đặc điểm kỹ thuật cho sản phẩm được thực hiện bởi khách hàng mà không có bất cứ sự tham vấn nào của nhà cung cấp. Hạn chế về nguồn vốn cũng làm ảnh hưởng đến việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất hoặc sử dụng nguồn lao động có trình tay nghề độ cao. Các DN cũng cho biết rằng sản phẩm tái chế gặp rất nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh về giá và tâm lý người tiêu dùng còn nhiều e dè khi sử dụng những sản phẩm này.
Vì quy mô sản xuất nhỏ, phần lớn được phát triển từ quy mô hộ gia đình nên các DN trên gặp khó khăn về mô hình quản trị, không thể tự mình vận hành được đầy đủ các hoạt động có tính chu kì của mô hình KTTH mà cần có sự hợp tác của nhiều DN lại với nhau để tạo thành một mô hình KTTH có hiệu quả. Tuy nhiên, hiện nay sự liên kết của các DN này rất yếu kém, có rất ít mối liên kết giữa những DNVVN với nhau hoặc giữa DNVVN với những DN có quy mô lớn khác. Bên cạnh đó, các DNVVN nói rằng họ thiếu thông tin về mạng lưới KTTH, chưa có kênh liên kết nào giúp họ có những nhận thức và kết nối về hoạt động theo mô hình KTTH hiện nay.
Ở Việt Nam, đã xuất hiện những chính sách để khuyến khích việc áp dụng KTTH vào các quá trình sản xuất trong DN. Luật BVMT sửa đổi năm 2020 đã có điều khoản số 142 đề cập đến nội hàm mô hình KTTH, tuy nhiên chưa có những hướng dẫn chi tiết hay quy định cụ thể để thực hiện, chẳng hạn như sử dụng vật liệu tái chế để có thêm định hướng cho các bên liên quan trong việc áp dụng khiến các DN này gặp khó khăn khi sử dụng những nguồn nguyên liệu tái chế cho việc quay vòng sản xuất. Ngoài ra, việc tiếp cận các nguồn lực xã hội, vốn tín dụng, nguồn vốn về các quỹ, về tiếp cận đất đai để phục vụ cho sản xuất, kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với các DNVVN, dẫn đến các vấn đề về phúc lợi xã hội của nhân viên cũng bị hạn chế do thiếu sự hỗ trợ từ các tổ chức công.
Để hướng tới chuyển đổi sang mô hình KTTH với các DNVVN ở Việt Nam, Chính phủ cần có những chính sách về:
Bên cạnh đó, Chính phủ cần có những cơ chế, chính sách về tài khóa và tiền tệ nhằm huy động các nguồn lực xã hội tham gia vào khâu sản xuất nguyên liệu, phát triển ngành công nghiệp phụ trợ hỗ trợ các ngành cùng phát triển. Có chính sách rõ ràng để hỗ trợ DN đầu tư vào công nghệ sạch, đặc biệt là chính sách thuế, khuyến khích tài trợ hoặc giảm lãi suất ngân hàng.
Từ nguyên tắc vận hành của các DNVVN hiện nay có thể thấy cơ hội rất lớn để nâng cao năng suất kinh doanh cũng như hiệu quả hoạt động xã hội và môi trường tại các DN này. Các chiến lược để áp dụng KTTH vào các DN là cách tiếp cận tích hợp thông qua các hoạt động xuyên suốt chuỗi cung ứng và dựa trên những nguồn lực sẵn có tại các DNVVN hiện nay như: Nguồn nguyên liệu tái sinh, cơ sở hạ tầng truyền thông, phương tiện và công nghệ cho việc thu hồi, từ đó hướng đến các mục tiêu như:
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, việc thúc đẩy mô hình KTTH cần dựa trên các DNVVN nội sinh. Các DN này cần có sự liên kết tạo ra một mạng lưới để có thể kết nối, chia sẻ thông tin với nhau trong việc áp dụng mô hình KTTH một cách hiệu quả. Mỗi DN có thể đóng vai trò thực hiện một hoạt động trong chuỗi “Thiết kế - Cung úng - Sản xuất - Phân phối - Sử dụng - Thu hồi” giúp hình thành nên các cụm công nghiệp sinh thái.
Thông qua khảo sát thực tế và phân tích nguồn lực hiện có của các DNVVN Việt Nam, nghiên cứu đã chỉ rõ các thách thức trong việc chuyển đổi từ cách thức kinh doanh truyền thống sang mô hình KTTH. Nhìn chung, sẽ không có công cụ chính sách đơn lẻ nào có thể kích hoạt, định hướng lại toàn diện về KTTH cho các DNVVN ở Việt Nam hiện nay mà cần phải triển khai các gói chính sách tổng thể trong đó có các công cụ chiến lược. Hơn nữa, cần có phạm vi cho các chính sách phát triển tri thức và đổi mới công nghệ. Kết quả này có thể mở rộng nghiên cứu ứng dụng cho từng nhóm ngành cụ thể, làm cơ sở đề xuất chính sách phát triển các ngành trong sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với BVMT.
Thái Thị Minh Nghĩa1,2, Nguyễn Thị Ánh Tuyết1*, Prasanta Kumar Dey3, Nguyễn Quốc Định2
1 Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội,
2 Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản,
3 Aston Business School, Aston University, Birmingham, UK
(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số Chuyên đề Tiếng Việt I/2021)
[1] Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), “Sách trắng DN Việt Nam năm 2019”, Nxb Thống kê, Hà Nội
[2] Chu Thanh Hải (2020), “Phát triển DN nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, https://www.vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/phat-trien-doanh-nghiep-nho-va-vua-o-viet-nam-hien-nay-96
[3] Prasanta Kumar Dey, Chrisovaladis Malesios, Debashree De, Pawan Budhwar, Soumyadeb Chowdhury, Walid Cheffi (2020), “Circular economy to enhance sustainability of small and medium-sized enterprises”
[4] Isponre Viet Nam and UNDP (2020), “Analytical report: Case Studies and Best Practices Applying circular economy principles to the Vietnamese context”
[5] Nguyễn Thế Chinh (2019), “Cơ hội và thách thức cho phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam”, Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường, https://isponre.gov.vn/home/dien-dan/1804-co-hoi-va-thach-thuc-cho-phat-trien-kinh-te-tuan-hoan-o-viet-nam
[6] Ellen MacArthur Foundation (2012), Towards the circular economy: Economic and business rationale for an accelerated transition, https://www.ellenmacarthurfoundation.org/assets/downloads/publications/Ellen-MacArthur-Foundation-Towards-the-Circular-Economy-vol.1.pdf
[7] Luật BVMT (2020), Luật số 72/2020/QH14, Điều 142, http://congbao.chinhphu.vn/noi-dung-van-ban-so-72-2020-qh14-32703
[8] Ellen MacArthur Foundation (2015), Delivering the circular economy a toolkit for policymakers, https://www.ellenmacarthurfoundation.org/assets/downloads/publications/EllenMacArthurFoundation_PolicymakerToolkit.pdf
[9] Nguyễn Thị Ánh Tuyết và cộng sự (2021), Báo cáo tổng kết dự án “Trung tâm tri thức về Kinh tế tuần hoàn: Thúc đẩy Nghiên cứu đa ngành, nâng cao năng lực và khả năng lãnh đạo do Newton Fund tài trợ”, Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.
Research on “Circular economy - CE” solutions applied to small and medium - sized enterprises in VietnamThai Thi Minh Nghia1,2, Nguyen Thi Anh Tuyet1*, Prasanta Kumar Dey3, Nguyen Quoc Dinh2 1 School of Environmental Science and Technology, Hanoi University of Science and Technology, Hanoi, Vietnam 2 Vietnam Institute of Geoscience and Mineral Resources, The Ministry of Natural Resources and Environment, Hanoi, Vietnam 3 Aston Business School, Aston University, Birmingham, UK ABSTRACTCircular economy is a potential solution for better use of resources, helping to solve the problem between economic benefits and the environment issues, while the current linear economic model is the basic cause that leads to a shortage of natural resources and serious environmental pollution. Defined as a technological concept to generate economic benefits while minimizing pressure on the environment, the circular economic model has received a delightful reception from public institutions and private sectors. Multiplication is increasing. The purpose of this study is to target small and medium enterprises in Vietnam to be able to effectively access and apply the circular economic model. Through online surveys and field surveys in 24 enterprises, the research analyzed available resources as well as challenges in establishing a circular economic model based on internal resources of medium and small enterprises in Vietnam. Development of network-based collective relationships combined with institutional governance is a necessary and effective strategy towards a sustainable economic model with environmental and social well-being. Keywords: Circular economy, small and medium enterprises, Vietnam. |