07/12/2017
Khu vực đô thị là nơi dân cư tập trung, các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH) diễn ra mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển của KT - XH, các đô thị nước ta đã có sự thay đổi rõ rệt về số lượng, quy mô và chất lượng đô thị. Đặc biệt, 2 TP lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh có tốc độ phát triển rất nhanh và chi phối sự phát triển đô thị cả nước. Quá trình đô thị hóa nhanh chóng đã dẫn đến nhiều hệ quả, trong đó chất lượng môi trường đô thị bị ảnh hưởng khá lớn, tồn tại một số vấn đề môi trường bức xúc mà nguyên nhân chủ yếu là do cơ sở hạ tầng đô thị chưa theo kịp tốc độ đô thị hóa.
Trong những năm qua, với sự nỗ lực của chính quyền các địa phương, chất lượng môi trường tại một số khu vực đô thị đã có sự cải thiện rõ rệt. Việc triển khai các dự án, chương trình xử lý nước thải sinh hoạt đô thị, nạo vét, khai thông, cải tạo cảnh quan các sông, hồ nội thành đã góp phần cải thiện đáng kể chất lượng môi trường nước tại một số đô thị lớn (Chương trình thu gom, xử lý nước thải từ các đô thị loại II trở lên trên LVS Cầu, Nhuệ - Đáy và Đồng Nai; Đề án cải tạo, nâng cấp sông Tô Lịch; Dự án đầu tư, cải thiện môi trường một số kênh mương nội thành TP. Hồ Chí Minh như kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè, Tàu Hủ - Bến Nghé, kênh Đôi kênh Tẻ...) Đối với môi trường không khí, một số điểm đen về ô nhiễm không khí đô thị cũng đã bị xóa bỏ, điển hình như khu vực Ngã ba Huế (TP. Đà Nẵng), Ngã ba Dầu Giây (Đồng Nai).
Tuy nhiên, đánh giá một cách tổng thể, bên cạnh những khu vực đô thị có chất lượng môi trường còn tương đối tốt, những khu vực đô thị đã có sự cải thiện chất lượng môi trường, vẫn còn rất nhiều đô thị, đặc biệt là các đô thị lớn, tập trung ở các khu vực đồng bằng, nơi có hoạt động phát triển KT - XH mạnh mẽ, ô nhiễm môi trường vẫn là vấn đề nổi cộm, tiếp tục đặt ra những thách thức không nhỏ đối với công tác quản lý môi trường.
Ô nhiễm không khí có xu hướng tăng ở các đô thị lớn, ô nhiễm bụi tiếp tục duy trì ở ngưỡng cao
Hầu hết các đô thị lớn của nước ta đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm không khí ngày càng gia tăng, tập trung chủ yếu là ô nhiễm bụi. Mức độ ô nhiễm giữa các đô thị có sự khác biệt, phụ thuộc vào quy mô đô thị, mật độ dân số, đặc biệt là mật độ giao thông và tốc độ xây dựng. Mức độ ô nhiễm biểu hiện rõ nhất ở 2 đô thị đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, tiếp đến là các đô thị loại I. Nhóm các đô thị còn lại có mức độ ô nhiễm thấp hơn.
Ô nhiễm bụi tại các đô thị cũng tập trung chủ yếu ở các nút, trục giao thông, nơi có lưu lượng phương tiện lớn hoặc khu vực có hoạt động công nghiệp. Trong giai đoạn vừa qua, môi trường không khí đô thị còn chịu tác động bởi hoạt hoạt động cải tạo, xây dựng mới các tuyến quốc lộ, hệ thống đường giao thông nội thành, nội thị, việc xây dựng mới hàng loại các khu đô thị... Các hoạt động này đã phát tán một lượng bụi lớn vào môi trường, gây ô nhiễm nhiều khu vực lân cận. Tại các khu vực nội thành, nội thị các đô thị lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, số ngày trong năm có nồng độ bụi PM10, PM2,5 vượt ngưỡng giới hạn cho phép của QCVN 05:2013/BTNMT chiếm tỷ lệ hơn 20% tổng số ngày trong năm. Đối với các đô thị khu vực miền Bắc, số ngày có nồng độ bụi cao thường tập trung vào các tháng mùa đông. Trong đó, thành phần bụi mịn (PM2,5) chiếm tỷ trọng tương đối cao. Theo nghiên cứu, các hạt bụi này thường mang tính axit, tồn tại lâu trong khí quyển, khả năng phát tán xa và đi sâu vào phổi, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người.
Diễn biến nồng độ bụi PM2,5 trung bình năm tại một số trạm quan trắc tự động, liên tục
Ô nhiễm môi trường nước tại các sông hồ, kênh rạch nội thành, nội thị vẫn diễn biến phức tạp
Môi trường nước tại các sông, hồ khu vực đô thị đang chịu sức ép rất lớn từ các nguồn thải từ các hoạt động sinh hoạt của người dân và các hoạt động phát triển KT - XH. Mức độ gia tăng lượng nước thải tại các đô thị ngày càng lớn, điển hình tại 2 đô thị đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Ở các đô thị khác, sức ép từ các nguồn nước thải cũng đang đặt ra nhiều thách thức. Tỷ lệ nước thải sinh hoạt đô thị được xử lý còn rất thấp mới chỉ đạt khoảng 11%, chỉ có 42 đô thị trên tổng số 787 đô thị có công trình xử lý nước thải tập trung. Điều này đã tác động rất lớn đến chất lượng nước của các nguồn tiếp nhận.
Nước mặt ở các hồ, kênh, mương nội thành, nội thị hầu hết đã bị ô nhiễm. Tại nhiều đô thị, các kênh, mương, hồ nội thành đã trở thành nơi chứa nước thải của các khu vực xung quanh. Ô nhiễm nước mặt trong khu vực nội thành xảy ra không chỉ ở các TP lớn mà còn xảy ra ở cả các đô thị nhỏ. Cục bộ tại một số khu vực, mức độ ô nhiễm đã khá nghiêm trọng. Vấn đề ô nhiễm chủ yếu là ô nhiễm hữu cơ, chất dinh dưỡng và vi sinh. Phần lớn các thông số đặc trưng cho ô nhiễm chất hữu cơ, chất dinh dưỡng đều vượt QCVN 08-MT:2015/BTNMT. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh là những đô thị có mức độ ô nhiễm sông, hồ, kênh rạch nội thành nghiêm trọng nhất. Tại các đô thị nhỏ hơn, tình trạng ô nhiễm nước hồ nội thành cũng đang là vấn đề nổi cộm; chất lượng nước sông, kênh mương nội thành cũng bị suy giảm; cục bộ tại một số khu vực, mức độ ô nhiễm đã ở mức khá nghiêm trọng như sông Phú Lộc (TP. Đà Nẵng), kênh Bến Đình (TP. Vũng Tàu)…
Mặc dù đã có những nỗ lực cải thiện thông qua các dự án cải tạo, mức độ ô nhiễm tại một số sông, hồ, kênh mương nội thành đã giảm, song thời gian gần đây, mức độ ô nhiễm có xu hướng tăng trở lại. Tình trạng ô nhiễm sông, kênh mương nội thành đã trở thành vấn đề nổi cộm, cần quan tâm giải quyết tại hầu hết các đô thị hiện nay.
Vấn đề úng ngập tại các đô thị có xu hướng mở rộng và gia tăng
Trong thời gian qua, tình trạng úng ngập tại nhiều đô thị không được cải thiện mà còn có xu hướng mở rộng và gia tăng. Nguyên nhân chính là do các khu vực nội thị cũ đều được xây dựng thêm nhiều nhà cao tầng trên cơ sở hệ thống hạ tầng kỹ thuật cũ ngày càng xuống cấp nhưng chưa được đầu tư, nâng cấp cải thiện tương xứng với yêu cầu phát triển; các khu vực đô thị mới, mở rộng với những quy hoạch không tính toán đầu đủ việc tiêu thoát nước tổng thể cho cả vùng, dẫn đến các khu đô thị mới ngăn cản hoặc làm chậm tốc độ thoát nước của các khu đô thị cũ. Cộng thêm những ảnh hưởng của BĐKH, diễn biến bất thường của thiên tai, thời tiết khiến tình trạng úng ngập tại các đô thị diễn ra thường xuyên hơn với mức độ ngày càng trầm trọng. Đặc biệt, tại các đô thị ven biển, do chịu thêm tác động của triều cường nên tình trạng úng ngập không chỉ phổ biến mà còn kéo dài hơn các đô thị khác. Điển hình như tại TP. Hồ Chí Minh, trong thời gian gần đây, úng ngập do triều cường diễn ra nhiều hơn, phạm vi úng ngập cũng mở rộng hơn với mức độ nghiêm trọng cũng có xu hướng tăng lên.
Suy giảm mực nước dưới đất tại các đô thị khu vực đồng bằng và xâm nhập mặn tại các đô thị ven biển đang trở nên phổ biến
Do khai thác sử dụng chưa hợp lý, tài nguyên nước dưới đất đang có xu hướng suy giảm về trữ lượng với mực nước xuống thấp, điều này ảnh hưởng trực tiếp tới nhiều khu vực đô thị. Vấn đề này tập trung tại các khu vực đô thị vùng đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ (một số khu vực nội thành Hà Nội, thị trấn Thanh Miện - Hải Dương, Quận 12 - TP. Hồ Chí Minh, TP. Sóc Trăng - Sóc Trăng). Chính vì mực nước ngầm suy giảm cũng đã gây ra tình trạng sụt lún tại một số khu vực đô thị.
Tại các đô thị ven biển, do chịu tác động của diễn biến BĐKH, do vấn đề xâm nhập mặn diễn ra ngày càng phổ biến và mở rộng phạm vi vào sâu trong đất liền, môi trường nước (nước mặt, nước dưới đất) môi trường đất tại các đô thị ven biển đã bị nhiễm mặn tại nhiều khu vực, tập trung ở vùng duyên hải miền Trung, hạ lưu sông Đồng Nai và các đô thị ven biển vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Tỷ lệ chất thải rắn đô thị được xử lý đúng kỹ thuật, hợp vệ sinh môi trường còn thấp, công nghệ xử lý còn lạc hậu và chưa phù hợp với điều kiện thực tế.
Tại hầu hết các khu vực đô thị, tỷ lệ thu gom chất thải rắn (CTR) luôn đạt khá cao và tăng hàng năm. Tỷ lệ thu gom CTR sinh hoạt đô thị trung bình là 85%. Tuy nhiên, tỷ lệ CTR được xử lý đúng kỹ thuật, hợp vệ sinh môi trường còn khá thấp. Tính đến hết năm 2015, cả nước có khoảng 35 cơ sở xử lý CTR sinh hoạt đô thị được xây dựng và đưa vào hoạt động. Công nghệ xử lý CTR đô thị hiện nay vẫn tập trung chủ yếu là chôn lấp và đốt. Tại khu vực đô thị, tỷ lệ CTR sinh hoạt được chôn lấp trực tiếp khoảng 34%, tỷ lệ CTR sinh hoạt được tái chế tại các cơ sở xử lý đạt khoảng 42% và lượng CTR còn lại là bã thải của quá trình xử lý được chôn lấp chiếm khoảng 24%.
Một điểm đáng lưu ý là hiện nay, chất thải nguy hại lẫn trong CTR sinh hoạt chưa được thu gom và xử lý riêng dẫn đến những hệ quả đối với người tiếp xúc với rác, quá trình phân hủy và hòa tan các chất nguy hại vào nước rỉ rác.Phần lớn các bãi chôn lấp tiếp nhận CTR đô thị đều chưa đảm bảo điều kiện vệ sinh môi trường, rất nhiều trong số đó là các bãi rác tạm, lộ thiên, thường trong tình trạng quá tải, không có hệ thống thu gom, xử lý nước rỉ rác... đang là nguồn gây ô nhiễm tới môi trường đất, nước, không khí các khu vực lân cận, thậm chí ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe và đời sống cộng đồng dân cư xung quanh. Một số địa phương đầu tư các lò đốt CTR công suất nhỏ, do chưa được kiểm soát chất lượng, các yêu cầu kỹ thuật vận hành nên đây cũng là nguồn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường thứ cấp do khí thải độc hại trong quá trình đốt, vận hành lò.
Có thể thấy rằng, cùng với tốc độ đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, bên cạnh những thành tựu KT- XH đạt được, môi trường đô thị nước ta vẫn đang tiếp tục chịu sức ép lớn, chất lượng môi trường bị suy giảm, ô nhiễm môi trường đô thị vẫn còn là vấn đề nổi cộm tiếp tục đặt ra nhiều thách thức đối với công tác BVMT. Chính vì vậy, để đáp ứng yêu cầu BVMT đô thị trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần tiếp tục tăng cường trách nhiệm của các Bộ ngành, địa phương trong công tác quản lý, quy hoạch phát triển đô thị, xác định rõ, không vì lợi ích kinh tế mà đánh đổi môi trường. Trên cơ sở các định hướng, nhiệm vụ trong giai đoạn mới đã được Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo tại Chỉ thị số 25/CT-TTg, các Bộ ngành, địa phương cần xây dựng các nhóm giải pháp nhằm tăng cường các nguồn lực BVMT đô thị hướng tới mục tiêu phát triển đô thị xanh, sạch và bền vững.
Lê Hoàng Anh – Phó Giám đốc
Mạc Thị Minh Trà, Nguyễn Thị Thu Trang
Trung tâm Quan trắc môi trường, Tổng cục Môi trường
(Tạp chí Môi trường số chuyên đề III năm 2017)