22/07/2020
TÓM TẮT
Hoạt động đánh bắt và chế biến hải sản là một trong những mũi nhọn phát triển kinh tế của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tuy nhiên đây cũng là điểm nóng về môi trường cần tập trung giải quyết. Bài viết dự báo mức độ ô nhiễm và thiệt hại khu vực chế biến hải sản tập trung đã được quy hoạch tại Bình Châu, Lộc An, Long Điền và cụm chế biến Tân Hải, nơi đã từng xảy ra sự cố làm chết cá hàng loạt trên sông Chà Và.
Từ khóa: CBTS, mô hình MIKE 21, thiệt hại.
Nhận bài: 14/3/2020; Sửa chữa:5/5/2020; Duyệt đăng: 11/5/2020
1. MỞ ĐẦU
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (BR-VT) hiện là một trong ba địa phương đứng đầu cả nước về hoạt động đánh bắt và chế biến thủy sản (CBTS). Theo Sở TN&MT, năm 2016, tỉnh BR-VT có 241 cơ sở CBTS, với tổng lượng nước thải phát sinh khoảng 8.839 m3/ngày, trong đó có khoảng 12% lượng nước thải (1.077 m3) chưa qua xử lý, thải thẳng ra môi trường, phần lớn từ các cơ sở quy mô hộ gia đình [4].
Theo UBND tỉnh BR-VT (2018), hoạt động của các nhà máy CBTS trên địa bàn tỉnh đã được xác định là 1 trong 10 điểm nóng về môi trường cần tập trung giải quyết, trong đó đặc biệt chú trọng đối với 139 cơ sở CBTS đang hoạt động tại 2 khu vực: Cửa Lấp và Tân Hải. Báo cáo của Viện Môi trường và Tài nguyên (2015) cho thấy, hoạt động CBTS là nguyên nhân gây chết cá nuôi trong lồng bè trên sông Chà Và, chiếm hơn 76% tải lượng ô nhiễm của các nguồn thải ra sông Chà Và. [6]
Nước thải trong ngành CBTS chủ yếu là nước rửa, sơ chế nguyên liệu, chế biến sản phẩm, nước vệ sinh nhà xưởng, máy móc thiết bị, dụng cụ sản xuất với thành phần: BOD5 800 - 2.000mg/l, có lúc đạt đến 4.500mg/l; COD 1.000 - 2.500mg/l, có lúc đạt đến 5.000mg/l; chất rắn lơ lửng (SS) 300 - 600mg/l; nitơ tổng số (T-N) 100 - 150mg/l; photpho tổng số (T-P) 20 - 50mg/l, đặc biệt vi sinh Coliforms thường lớn hơn 105 MPN/100ml, với lưu lượng khoảng 20 - 35 m3/tấn sản phẩm. Đây là nguồn gây ô nhiễm môi trường rất nghiêm trọng cần phải xử lý đáp ứng quy chuẩn môi trường[3].
Kết quả của đề tài “Điều tra, phân loại các nguồn thải và xây dựng công cụ hỗ trợ quản lý, kiểm soát ô nhiễm trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu” [6] cho thấy, quá trình hoạt động của nhóm ngành chế biến hải sản chủ yếu xả thải vào lưu vực sông Thị Vải và lưu vực sông Dinh. Có 31/65 nguồn thải được khảo sát vượt QCVN 11-MT:2015/BTNMT, với BOD5 dao động từ 58 – 570 mg/l, nồng độ N-NH4+ dao động 27,07 – 2.004,80 mg/l, tổng Phospho dao động từ 24,05 – 78,75 mg/l, nồng độ chất rắn lơ lửng khoảng 388 – 421 mg/l.
Để nâng cao hiệu quả sản xuất, đổi mới quy trình công nghệ chế biến, khai thác hiệu quả tài nguyên nguồn lợi thủy sản và thuận lợi trong quá trình xử lý, kiểm soát hoạt động xả thải từ các nhà máy CBTS trên địa bàn tỉnh, trong những năm gần đây tỉnh BR-VT đã quy hoạch, đầu tư hạ tầng các khu CBTS tập trung, từng bước di dời các nhà máy đang hoạt động nằm trong dải đường bờ kéo dài từ Vũng Tàu đến Bình Châu. Với mục tiêu dự báo nguy cơ ảnh hưởng để có kế hoạch phòng ngừa sự cố xảy ra do hoạt động CBTS, nghiên cứu này sử dụng phần mềm MIKE 21 để mô hình hóa lan truyền ô nhiễm và đánh giá phạm vi, cũng như mức độ thiệt hại do các sự cố gây ra tại khu quy hoạch CBTS tập trung, từ đó có cơ sở để lên phương án phòng ngừa và khắc phục sự cố một cách hiệu quả. Các khu vực nghiên cứu bao gồm:
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
• Phương pháp mô hình hóa: Sử dụng phần mềm MIKE 21 [7] của Viện Thủy lợi Đan Mạch để đánh giá phạm vi lan truyền ô nhiễm và mức độ ô nhiễm trên lưu vực sông tương ứng với các kịch bản nguồn xả thải khác nhau, qua đó giúp xác định các phạm vi bị ô nhiễm do sự cố. Phương pháp mô hình hóa đã được thương mại hóa và áp dụng phổ biến trên thế giới cũng như tại Việt Nam, trong đó mô hình MIKE 21 đã được ứng dụng để xác định phạm vi lan truyền ô nhiễm.
• Phương pháp thống kê, thu thập dữ liệu, kết hợp với các số liệu đo đạc: xây dựng các thông số kịch bản môi trường trong điều kiện hoạt động bình thường và khi có sự cố môi trường xảy ra. Các dữ liệu này sẽ là số liệu đầu vào để chạy mô hình toán đánh giá lan truyền ô nhiễm trên các lưu vực sông. Kết quả xác định thông số chạy mô hình như sau:
STT |
Khu vực CBTS |
Lưu lượng (m3/ngày) |
Tải lượng (kg/ngày) |
||
---|---|---|---|---|---|
BOD5 |
Amoni |
Photphat |
|||
1 |
Bình Châu |
3000 |
13.026 |
945 |
31,5 |
2 |
Lộc An |
6000 |
26.000 |
1.890 |
63 |
3 |
Long Điền |
3500 |
15.197 |
1.103 |
37 |
4 |
Tân Hải |
2.260 |
4.066 |
574 |
- |
• Phương pháp sử dụng bản đồ: Hỗ trợ xác định phạm vi lan truyền ô nhiễm và xác định các vùng nuôi trồng thủy sản trên lưu vực.
• Phương pháp lượng hóa thiệt hại: Sử dụng để ước tính mức độ thiệt hại do sự cố môi trường gây ra, chủ yếu đánh giá trên cơ sở tổn thất từ hoạt động nuôi trồng và đánh bắt thủy sản trên các lưu vực, được tham khảo từ nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Văn Phước và cộng sự, 2011 [1], theo đó: Ước tính giá trị thiệt hại = Mức thiệt hại x Tổng diện tích (ha) bị thiệt hại
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Kết quả mô phỏng diễn biến DO trong khu vực nghiên cứu vào mùa khô cho thấy: nồng độ DO dưới 2 mg/l đã lan truyền đến ngã ba sông Chà Và – Mũi Giùi; nồng độ DO trong khoảng từ 3,2 – 3,6 mg/l đã lan truyền đến khu vực dưới hạ lưu cầu Chà Và khoảng 1,5 km; nồng độ DO trong khoảng từ 3,6 – 4,0 mg/l đã lan truyền qua khỏi vị trí lồng bè cuối cùng ở phía hạ lưu sông Chà Và. Theo QCVN 38:2011/BTNMT (Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt bảo vệ đời sống thủy sinh), nồng độ DO trong nước sông phải từ 4 mg/l trở lên.
Khác với DO, kết quả mô phỏng cho thấy, NH4+ chỉ lan truyền chủ yếu trong khu vực rạch Ván và đoạn đầu của sông Chà Và. Tại các khu vực nuôi cá lồng bè trên sông Chà Và đều có nồng độ NH4+ dưới 1,0 mg/l (thỏa mãn QCVN 38:2011/BTNMT và QCVN 08-MT:2015/BTNMT cột B1). Có thể giải thích là do NH4+ sau khi ra khỏi cống số 6 nhanh chóng chuyển hóa trong tự nhiên thành NO2– và NO3–.
Thống kê cho thấy, tổng diện tích mặt nước nuôi thủy sản và nuôi lồng bè trên sông bị ảnh hưởng ước tính khoảng 21,92 ha.
Phạm vi ảnh hưởng đến vùng nhạy cảm: Theo khoanh vùng nhạy cảm môi trường, sự cố xảy ra vào mùa khô sẽ ảnh hưởng đến khoảng diện tích nuôi thủy trong khu vực nghiên cứu là 193 ha.
|
|
Hình 1. Kết quả mô phỏng vào mùa khô (a) và mùa mưa (b) khi xảy ra sự cố tại khu CBHS Tân tải
Nếu sự cố xảy ra vào mùa khô, theo kết quả mô phỏng diễn biến DO trong khu vực nghiên cứu cho thấy: dòng thải khi ra biển được nước biển pha loãng hàm lượng DO tăng lên dao động trong khoảng 5-6 mg/l, dòng nước luôn có xu hướng di chuyển và lan về phía Bắc.
Khác với DO, kết quả mô phỏng cho thấy, khi sự cố xảy ra, nồng độ NH4+ vượt QCVN 08-MT:2015/BTNMT cột B1 từ 1,01 - 2,3 lần (2,1 mg/l) tại vị trí cách nguồn thải khoảng 100 m và phạm vi lan truyền trên diện tích mặt nước là 0,023 km2. Phạm vi lan truyền của ô nhiễm NH4+ từ vị trí xả thải là khoảng 100 m về phía hạ nguồn và 300 m ngược về phía thượng nguồn. Nguyên nhân là do vị trí nguồn thải nằm ở khu vực cửa sông, chịu tác động của sóng biển nên dòng nước có xu hướng di chuyển về phía Bắc.
Lan truyền ô nhiễm BOD5 (với nồng độ 15 – 23,1 mg/l) ảnh hưởng trong phạm vi diện tích mặt nước 0,013 km2, trong đó khoảng 5.000 m2 mặt nước quanh vị trí nguồn thải có nồng độ BOD5 vượt QCVN 08-MT:2015/BTNMT cột B2. Hướng lan truyền của chất ô nhiễm là 200 m về phía thượng nguồn và 80m về phía hạ nguồn (tính từ điểm xảy ra sự cố).
Tương tự như mùa khô, hướng di chuyển của dòng nước có chứa nước thải tràn ra từ sự cố đi ra biển, dòng nước lại có xu hướng di chuyển về phía hạ nguồn. Do trong điều kiện mùa mưa, với chế độ thủy văn và dòng chảy ven biển mạnh hơn, nên phạm vi lan truyền ô nhiễm rộng hơn so với mùa khô, nhưng với nồng độ ô nhiễm thấp hơn. Diện tích mặt nước bị ảnh hưởng bởi NH4+ và BOD5 lần lượt là 0,031 km2 và 0,035 km2, n.
Phạm vi ảnh hưởng đến vùng nhạy cảm: Khi sự cố xảy ra sẽ ảnh hưởng đến khoảng 0,91 – 1,72 ha (mùa khô) và 0,58 – 0,63 ha (mùa mưa) diện tích rừng trong khu vực.
Hình 2. Kết quả mô phỏng vào mùa khô (a) và mùa mưa (b) khi có sự cố nước thải tại khu CBTS Bình Châu
Khi sự cố xảy ra vào mùa khô, do chịu tác động mạnh của triều nên nước thải liên tục bị đẩy ngược về thượng nguồn. Nguyên nhân là do vị trí nguồn thải nằm ở khu vực cửa sông, chịu tác động của sóng biển nên dòng nước có xu hướng di chuyển về phía Bắc. Nồng độ NH4+ vượt QCVN 08-MT:2015/BTNMT cột B1 từ 1,01 – 3,5 lần và lan truyền trên diện tích mặt nước là 0,91 km2, trong đó, khoảng nồng độ NH4+ > 1,5 mg/l lan về phía hạ nguồn của điểm xả thải và chiếm ¼ diện tích mặt nước bị ô nhiễm. Phạm vi tran truyền của ô nhiễm NH4+ từ vị trí xả thải là khoảng 3,2 km về phía hạ nguồn và 1,4 km ngược về phía thượng nguồn.
Lan truyền ô nhiễm BOD5 với nồng độ từ 15 – 42,5 mgl, vượt từ 1,01 – 2,8 lần so với QCVN 08-MT:2015/BTNMT cột B1 và ảnh hưởng đến khoảng 0,71 km2 diện tích mặt nước, chủ yến về phía hạ nguồn. Trong đó, diện tích ô nhiễm so với cột B2 chiếm 1/6 tổng diện tích ô nhiễm. Hướng di chuyển của chất ô nhiễm là khoảng 1 km về phía thượng nguồn và 3 km về phía hạ nguồn (tính từ điểm xảy ra sự cố), sau đó nồng độ ô nhiễm giảm dần và đi ra biển.
Tương tự như mùa khô, hướng di chuyển của dòng nước ô nhiễm vào mùa mưa cũng có xu hướng lan về phía hạ nguồn nhiều hơn. Tuy nồng độ ô nhiễm cực đại vào mùa mưa không cao bằng mùa khô, nhưng do chế độ thủy văn và dòng chảy ven biển vào mùa mưa mạnh hơn, nên phạm vi lan truyền ô nhiễm rộng hơn so với mùa khô, với diện tích mặt nước bị ảnh hưởng bởi NH4+ và BOD5 lần lượt là 1,07 km2 và 0,95 km2. Trong đó, ô nhiễm NH4+ với nồng độ từ 0,9 - 2,7 mg/l chiếm 4/5 tổng diện tích mặt nước bị ô nhiễm (so với hạm vi lan truyền chất ô nhiễm NH4+ là khoảng 3,5 km về phía hạ nguồn và sau đó nồng độ ô nhiễm giảm dần ra biển. Tương tự, nồng độ ô nhiễm BOD55 lan truyền đến 3 km về phía hạ nguồn.
Hình 3. Kết quả mô phỏng vào mùa khô (a) và mùa mưa (b) khi xảy ra sự cố nước thải tại khu CBTS Lộc An
Theo kết quả mô phỏng khi sự cố xảy ra không gây ô nhiễm tại khu vực. Nguyên nhân có thể là do gần biển bị tác động mạnh bởi nên lượng nước thải bị pha loãng và chuyển đi nhanh chóng, cho nên nước thải từ sự cố không ảnh hưởng đến khu vực.
Bảng 1. Kết quả xác định tổng giá trị thiệt hại của từng sự cố
STT |
Sự cố |
Tổng thiệt hại (đ) |
|
---|---|---|---|
Mùa kiệt |
Mùa Lũ |
||
1 |
Tân Hải |
15.516.736.619 |
15.494.475.356 |
2 |
CBHS Lộc An |
3.355.858.251 |
3.934.809.504 |
3 |
CBHS Bình Châu |
86.114.130 |
113.599.270 |
Ghi chú: Giả thiết đơn giá tính toán thiệt hại đối với nuôi trồng thủy sản từ 20.000.000 - 35.000.000 đ/ha và đơn giá tính toán thiệt hại đối với đánh bắt là 50.000 đ/kg cá (giả thiết theo thời điểm hiện tại, đơn giá này có thể thay đổi theo thời điểm xảy ra sự cố).
4. KẾT LUẬN
Phát triển nuôi trồng và CBTS đã trở thành ngành kinh tế quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của BR-VT. Quá trình tính toán ước tính thiệt hại do sự cố môi trường cho thấy, khu vực CBTS Tân Hải vẫn là nguồn có nguy cơ cao về ô nhiễm môi trường, một phần ảnh hưởng từ sự cố trước đây chưa khắc phục hoàn toàn, một phần do đặc điểm khu vực là nằm gần vùng quy hoạch nuôi trồng thủy sản trên sông Chà Và với mật độ nuôi quá dày và kỹ thuật nuôi chưa tốt, do đó ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước.
Để phát triển bền vững, cần tăng cường vai trò quản lý nhà nước về BVMT của chính quyền các cấp, các ngành chức năng trong việc thực thi Luật BVMT đối với các cơ sở nuôi trồng và CBTS. Huy động nguồn vốn từ các tổ chức kinh tế đầu tư xây dựng hoàn chỉnh hệ thống xử lý nước thải tập trung tại 3 khu chế biến hải sản tập trung là Long Điền, Lộc An và Bình Châu, đảm bảo toàn bộ nước thải của các cơ sở chế biến hải sản được di dời vào các khu chế biến hải sản tập trung được xử lý đạt quy chuẩn môi trường trước khi xả vào vùng nước biển ven bờ của tỉnh BR-VT; Thường xuyên thực hiện công tác kiểm soát ô nhiễm từ cụm chế biến Tân Hải; Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm các doanh nghiệp xả thải vượt quy chuẩn cho phép.
Về kỹ thuật, cần lắp đặt các thiết bị quan trắc tự động lưu lượng và chất lượng nước thải đầu ra của các hệ thống xả thải; nhanh chóng lắp đặt hệ thống thu gom nước thải tập trung cho cụm Tân Hải và đưa toàn bộ nước thải về nhà máy xử lý nước thải tập trung để xử lý đạt quy chuẩn cho phép trước khi thải ra môi trường, kèm theo các giải pháp ứng phó sự cố hệ thống xử lý nước thải bằng cách chuyển dòng nước thải chưa đạt quy chuẩn vào khu đất ngập nước, tránh xả trực tiếp vào môi trường; đầu tư cải tạo phục hồi chất lượng nước khu đầm chứa nước thải của cụm Tân Hải.
Nguyễn Văn Phước1, Lê Tân Cương1, Vũ Văn Nghị2, Nguyễn Thị Thu Hiền3
1Viện Môi trường và Tài nguyên
2Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
3Hội Nước và Môi trường TP. Hồ Chí Minh
(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số Chuyên đề Tiếng việt 2/2020)
Lời cảm ơn: Nghiên cứu được tài trợ bởi Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) trong khuôn khổ Đề tài NCKH mã số B2017-24-01.
Tài liệu tham khảo
FORECASTING THE LEVEL OF EFFECTS BY FISHERY PROCESSING ACTIVITIES IN BA RIA - VUNG TAU PROVINCE Nguyen Van Phuoc1, Le Tan Cuong1,Vu Van Nghi2, Nguyen thi Thu Hien3 1Institute for Environment and Resources; 2University of Natural Sciences HCMC; 3Association of Water and Environment HCMC Abstract: The fishing and seafood processing activities in Ba Ria - Vung Tau is one of the key economic development points of the province, but this is also identified as one of the environmental hotspots to focus on. to handle. This paper focuses on forecasting and assessing the level of pollution and damage in planned seafood processing in Binh Chau, Loc An, Long Dien and Tan Hai cluster, which used to be incident causing massive fish death on Cha Va river. Key words: seafood processing, MIKE2 model, damages. |