07/02/2020
Năm 1995, hồ Ba Bể đã được Hội nghị các Hồ nước ngọt thế giới, tổ chức tại Mỹ công nhận là một trong 20 hồ nước ngọt đặc biệt của thế giới cần được bảo vệ. Cuối năm 2003, Vườn quốc gia (VQG) Ba Bể được công nhận là Vườn di sản ASEAN. Năm 2011, hồ Ba Bể được Ban thư ký công ước Ramsar công nhận là khu Ramsar (vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế) thứ 1938 của thế giới và là khu Ramsar thứ 3 của Việt Nam. Khu Ramsar VQG Ba Bể có diện tích 10.048 ha, trong đó mặt hồ rộng khoảng 500ha và ở trên độ cao 178m so với mực nước biển. Đây chính là hồ tự nhiên duy nhất trên núi có tầm quan trọng to lớn tại nước ta. Với chiều sâu trung bình 17-23 m, chỗ sâu nhất là 29 m, Hồ Ba Bể là địa điểm du lịch sinh thái, văn hóa có ý nghĩa to lớn trong du lịch miền núi Ðông Bắc của nước ta.
VQG Ba Bể có đến 1281 loài thực vật thuộc 162 họ và 672 chi. Trong đó, có 600 loài cây thân gỗ, thuộc 300 chi và 114 họ. Rất nhiều loài thực vật quý hiếm, giá trị kinh tế cao có tên trong sách đỏ Việt Nam và thế giới. Bên cạnh đó, VQG Ba Bể còn có nhiều loại cây gỗ đặc hữu quý hiếm sinh trưởng, như Trúc dây, Đinh, Nghiến, Lim… điển hình là trúc dây loài cây đặc hữu của VQG Ba Bể. Trúc dây thường mọc ở những vách núi, thân thả mành xuống hồ hình thành các bức mành xung quanh hồ tạo nên cảnh quan đẹp mắt. Hệ động vật của VQG Ba Bể cũng khá đa dạng, phong phú, bao gồm: 81 loài thú, 22 loài được ghi tên trong sách đỏ Việt Nam, 322 loài chim, thuộc 17 bộ, 47 họ và trong số đó có 7 loài được ghi trong sách đỏ Việt Nam, 27 loài bò sát 106 loài cá, được xác định là phong phú, đa dạng nhất nước ta. 17 loài lưỡng cư. 553 loài côn trùng và nhện.
Tuy nhiên, cùng với sự đa dạng phong phú về động thực vật và hệ sinh thái (HST) thủy sinh của hồ Ba Bể đang bị xâm hại nghiêm trọng, bên cạnh tình trạng đất đai khu vực ven hồ bị lấn chiếm, xây dựng trái phép, gây mất mỹ quan và tác động tiêu cực tới HST đất ngập nước khu vực hồ Ba Bể. Như một số cơ quan truyền thông, báo chí ở Trung ương và địa phương đã đưa tin, hiện nay khu Ramsar VQG Ba Bể đang phải đối mặt với hiện tượng bồi lắng do phù sa của 3 con suối Chợ Lèng (Pác Ngòi), Bó Lù (Nam Cường), Tả Han và sông Năng đồ vào hồ Ba Bể.
Hiện tượng bồi lắng hồ Ba Bể đã có từ lâu, tuy nhiên thời gian gần đây tại khu vực hồ Ba Bể vấn đề bồi lắng phù sa và sạt lở đất ngày càng gia tăng một cách đáng báo động, gây mất đất canh tác, ảnh hưởng tới sinh kế và đời sống của cư dân khu vực 4 thôn ven hồ Ba Bể (Bó Lù, Bản Cảm, Cốc Tộc và Pác Ngòi), đồng thời tác động tiêu cực đến HST thủy sinh và bồi lấp đáy hồ Ba Bể tại lưu vực 3 con suối nêu trên và cửa hồ 3 tiếp giáp với sông Năng.
Theo kết quả đánh giá mức độ bồi lấp hồ Ba Bể do Viện Khoa học thủy lợi, Bộ NN&PTNT tiến hành năm 2002, lượng bồi lấp tại các điểm có dòng chảy vào hồ là: cửa suối Tà Han là 9,70 vạn m3; cửa suối Bó Lù 11,06 vạn m3; cửa sông Chợ Lèng có lượng bồi lấp lớn nhất lên tới 18,37 vạn m3; cửa hồ tiếp giáp sông năng, đây là điểm nước chảy ngược vào hồ khi lũ sông dâng cao cũng đo được 3,04 vạn m3. Tổng lượng bồi lấp tới năm 2002 là 42,17 vạn m3, bãi bồi mỗi năm lấp hồ từ 10-60 m, nâng đáy hồ lên trung bình 30 cm, ước tính mỗi năm (giai đoạn 1975 - 2002) có 70 vạn tấn phù san bồi lấp lòng hồ.
Năm 2011, theo Tiến sỹ Đặng Văn Lợi (Đặng Văn Lợi, 2011) đại diện Lãnh đạo Đoàn công tác, kiểm tra về tình trạng ô nhiễm của Cục Kiểm soát ô nhiễm,Tổng cục Môi trường, cho biết xung quanh khu vực hồ Ba Bê khi đó có 3 mỏ khoáng sản, trong đó 2 mỏ vẫn hoạt động là mỏ sắt Pù Ổ tại xã Quảng Bạch, huyện Chợ Đồn, được cấp phép năm 2008 và bắt đầu hoạt động từ tháng 10/2009, với tổng diện tích là 26,5 ha, diện tích khai trường là 3,5 ha; Mỏ sắt Bản Cuôn tại xã Ngọc Phái. Theo đó, 16 hộ dân xã Quảng Bạch đã gửi khiếu nại trực tiếp đến các Công ty khoáng sản về ảnh hưởng của các hoạt động khai khoáng tới sản xuât nông nghiệp (trồng lúa) của bà con. Tuy nhiên, theo báo cáo quan trắc của Chi Cục BVMT tỉnh Bắc Kạn, nước từ khu vực khai thác mỏ Bản Cuôn và Pù Ổ tác động, ảnh hưởng đến sự bồi lắng của hồ Ba Bể là không đáng kể.
Đến năm 2016, theo phản ánh của Thế Bình, Báo Nhân dân ngày 23/3/2016, sông Năng bị bồi lắng, cạn nước đang trực tiếp uy hiếp hồ Ba Bể, làm thay đổi HST của hồ, đặc biệt là tình trạng bồi lắng sông Năng cũng làm cho hồ Ba Bể bị bồi lắng theo từ phía bắc, trong khi hồ Ba Bể từ phía đông và phía nam đã bị bồi lấp cả cây số. Theo người dân tại Bản Cảm, khu vực sông Năng chảy qua cho biết: nhiều đoạn trên sông Năng đã rất nông do bồi lắng, mực nước xuống thấp, gây khó khăn cho thuyền, bè đi lại ảnh hưởng tới sinh hoạt và sinh kế của người dân. Nếu không có những biện pháp như trồng, bảo vệ rừng, ngăn chặn các hoạt động khai thác cát, san ủi đất đá xuống sông thì rồi đây sông Năng sẽ thành suối, cũng tại thời điểm này nhiều đoạn đã bị thắt lại, tác động rất tiêu cực đến “Hạ Long trên núi” hồ Ba Bể.
Theo Báo cáo đánh giá sơ bộ nguyên nhân bồi lắng hồ Ba Bể và đề xuất giải pháp khắc phục, Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu năm 2018, Bộ TN&MT về nguyên nhân bồi lắng hồ Ba Bể và đề xuất giải pháp khắc phục, cho rằng nguyên nhân chính làm gia tăng hiện tượng bồi là: Nguyên nhân tự nhiên, như mưa lũ, gắn liền với điều kiện địa hình, thời tiết tại khu vực hồ Ba Bể; Các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của con người, như xây dựng nhà và đường giao thông trong khu vực VQG Ba Bể và gần hồ Ba Bể, các hoạt động canh tác trong lực vực.
Tuy nhiên, theo kết quả điều tra, nghiên cứu của nghiên cứu sinh Ngân Ngọc Vỹ thực hiện trong tháng 2/2019, nguyên nhân chính của sự bồi lắng phù sa và sạt lở đất là do các hoạt động phát triển kinh tế của con người tại địa phương, đặc biệt là các hoạt động khai thác cát ở lưu vực sông Năng thuộc vùng lõi và vùng đệm của VQG Ba Bể. Hiện nay có Doanh nghiệp Hà Giang và Hợp tác xã sông Năng được cấp phép khai thác cát trên địa bàn lưu vực sông Năng, ngoài ra các cơ quan chức năng chưa thống kê được hết số lượng xuồng khai thác cát bất hợp pháp tại khu vực, nhưng theo người dân, số lượng cát được khai thác tại khu vực không hề nhỏ, ảnh hưởng tới dòng chảy của sông Năng dọc theo đoạn từ bến thuyền Bốc Lốm, qua động Puông đến Bản Cám. Theo đó, người dân cũng cho rằng nguyên nhân tự nhiên do thời tiết và biến đổi khí hậu là không đáng kể so với quy luật tự nhiên mà người dân nơi đây đã trải nghiệm từ nhiều đời nay, người dân cũng cho rằng chỉ trong vòng chưa đến 50 năm nữa hồ Ba Bể có thể sẽ bị xóa sổ, thay vì khoảng một trăm năm nữa như các nhà khoa học khuyến cáo, nếu không có những nghiên cứu đánh giá khoa học về hệ lụy của hiện tượng bồi lắng phù sa và sạt lở đất đối với khu vực hồ Ba Bể và thực hiện các giải pháp khắc phục kịp thời từ các cơ quan hữu trách và người dân,thì hồ Ba Bể sẽ bị xóa sổ chỉ còn là vấn đề thời gian.
Bảng tóm tắt ý kiếncủa người dân 4 thôn ven hồ Ba Bể
Thôn |
Ý kiến của cộng đồng về hiện tượng bồi lắng phù sa và sạt lở đất tại khu vực hồ Ba Bể |
Bản Cám |
|
Bó Lù |
|
Cốc Tộc |
|
Pác Ngòi |
|
(Nguồn: điều tra của tác giả, tháng 2/2019)
Để khắc phục hạn chế những tác động tiêu cực của hiện tượng bồi lắng phù sa và sạt lở đất nêu trên tại khu vực hồ Ba Bể, cần thực hiện những giải pháp pháp tích cực, hiệu quả nhằm phòng ngừa, xử lý và ứng phó các sự cố môi trường và đảm bảo sinh kế của người dân, cụ thể như sau:
Thứ nhất, cần có sự vào cuộc của các cơ hữu trách ở Trung ương, sớm có những nghiên cứu khoa học, đánh giá, dự báo một cách hệ thống, toàn diện quá trình bồi lắng, từ đó đề xuất các giải pháp khả thi khắc phục vấn đề bôi lắng của hồ Ba Bể.
Thứ hai, tỉnh Bắc Kạn cần tiếp tục đẩy mạnh chương trình trồng rừng, đặc biệt là trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng đặc dụng tại các lưu vực hồ Ba Bể nhằm khắc phục và hạn chế bồi lắng do tác động tiêu cực của các hoạt động phát triển kinh tế xã hội tại khu vực. Đồng thời, tăng cường quản lý vùng đệm VQG Ba Bể theo nguyên tắc phát triển bền vững, chủ động và phối hợp với các Bộ, ngành liên quan, các trường, viện để nghiên cứu, đánh giá toàn diện quá trình bồi lắng và đề xuất các giải pháp.
Thứ ba, giữa các bên liên quan của địa phương (Ban quản lý VQG Ba Bể, Ban quản lý khu du lịch Ba Bể, UBND huyện Ba Bể, UBND xã Nam Mẫu và cộng đồng người dân), cần xây dựng cơ chế quản lý, xử lý hiệu quả các hoạt động khai thác cát bất hợp pháp tại lưu vực sông Năng và các hoạt khai khoáng cũng như các sinh kế của người dân tại lưu vực hồ Ba Bể gây sạt lở đất và bồi lấp phù sa.
Thứ tư, xây dựng cơ chế chính sách tăng cường sự tham gia của cộng đồng cư dân ven hồ tham gia giám sát các hoạt động khai thác và sử dụng các dịch vụ HST của hồ, đồng thời có cơ chế chia sẻ lợi ích của cộng đồng từ các hoạt động sinh kế dựa vào các giá trị dịch vụ HST của khu Ramsar VQG Ba Bể đem lại.
ThS.Ngân Ngọc Vỹ
Viện Tài nguyên và Môi trương
Đại học Quốc gia Hà Nội
(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số Chuyên đề Tiếng việt 3/2019)
Tài liệu tham khảo