04/10/2018
TÓM TẮT
Tại nhiều thành phố ở Việt Nam, nước thải từ các khu giết mổ tập trung thường được thải trực tiếp ra nước mặt mà không qua xử lý. Quản lý nước thải lò mổ gia súc thường gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển cơ sở hạ tầng tập trung. Quá trình xử lý tại cơ sở là một biện pháp quản lý nước thải không tốn kém chi phí. Nghiên cứu này đánh giá quá hoạt động của công nghệ bể sinh học kết hợp màng khí nâng để xử lý ô nhiễm nước thải giết mổ từ các lò giết mổ lợn tập trung trong quy mô phòng thí nghiệm. Kết quả nghiên cứu của đề tài là được lợi ích của chế phẩm vi sinh khi bổ sung vào hệ thống. Thời gian khởi động hệ thống rút ngắn so với nghiên cứu trước từ 6 tuần xuống còn 2 tuần. Hiệu suất xử lý COD, TN đạt từ 90 - 96%; 76 - 86%. Tốc độ lọc màng tăng khi duy trì nồng độ MLSS từ 1.500 – 2.000 mg/l. Nước thải sau quá trình sinh học kết hợp màng khí nâng đạt tiêu chuẩn xả thải loại B theo QCVN 40:2011/BTNMT.
Từ khóa: Màng khí nâng, bể sinh học, xử lý tại cơ sở, nước thải giết mổ.
1. Giới thiệu
Trên thế giới, hầu hết nước thải lò giết mổ được tạo ra trong sản xuất sản phẩm thịt do các quá trình làm sạch: Rửa thịt trước và sau khi giết mổ động vật, rửa sàn nhà, các trang thiết bị. Nước thải lò giết mổ có thành phần hữu cơ cao, dầu mỡ, và các hợp chất chứa nitơ (protein và axit amin), COD: 1.000 - 10.000 mg/L, BOD5 1.000 - 8.000 mg/L, TN: 100 - 800 mg/L, TP: 20 - 100 mg/L, và chất béo 20 - 400 mg/L (Jia và NNK, 2012). Tại Việt Nam, theo tài liệu “Xử lý nước thải công nghiệp và đô thị” của TS. Lâm Minh Triết (2006) hàm lượng BOD, COD, SS của nước thải giết mổ trung bình lần lượt là 1.800 mg/l, 2.700 mg/l và 810 mg/l; Lượng coliform là 25.000x103 MPN/100 ml. Ngoài ra, nước thải giết mổ còn chứa một lượng lớn muối ăn (NaCl) và dầu mỡ phát sinh trong quy trình giết mổ. Cụ thể, thành phần nước thải tại các cơ sở giết mổ gia súc ở Việt Nam bao gồm: Hàm lượng BOD, COD, SS, Phốt-pho, nitơ khá cao, bên cạnh đó còn chứa một hàm lượng muối lớn và mầm bệnh như là vi khuẩn Samonella, Shigella, ký sinh trùng, amip, nang bào, dư lượng thuốc trừ sâu, các độc chất… từ thức ăn của gia súc còn lại trong phân và nội tạng.
Tại các quốc gia phát triển, nhiều công nghệ xử lý nước thải lò giết mổ với nhiều ưu, nhược điểm khác nhau đã và đang được áp dụng: Giải pháp bể phản ứng sinh học hiếu khí (aerated reactor), công nghệ phân hủy yếm khí treo bùn hoạt tính (UASB – Upflow Anaerobic Sludge Blanket Digestion technology), thiết bị phản ứng khối tuần tự gián đoạn (SBR – Sequencing Batch Reactor), công nghệ lọc sinh học (Biofilter system),… Nổi bật trong số đó là công nghệ màng vi lọc (Membrane bio reactor). Trong thực tế, các công ty trên thế giới cũng đã ứng dụng hệ thống MBR cho việc xử lý nước thải giết mổ. Các nghiên cứu của nhóm nghiên cứu Prieto và nnk (2013) đã chứng minh hiệu quả của giải pháp công nghệ sử dụng khí nâng hỗ trợ cho màng là một giải pháp có tiềm năng ứng dụng cao và giải quyết được hai thách thức công nghệ được nêu trên đồng thời giảm tiêu thụ năng lượng đến 30% và duy trì được hiệu suất lọc màng mà không cần phải rửa màng hoặc thay mới.
Hiện nay, giải pháp công nghệ sử dụng khí nâng hỗ trợ cho màng (màng khí nâng) còn tương đối mới và chưa xuất hiện ở Việt Nam. Tại Việt Nam, các phương pháp xử lý nước thải giết mổ gia súc phổ biến có thể kể đến là hệ thống DEWATS gồm bốn bước xử lý cơ bản và công nghệ sinh học lọc dòng ngược (USBF). Nổi bật hơn cả là hệ thống công nghệ tích hợp tiên tiến có tận thu và sử dụng năng lượng tái tạo để xử lý hiệu quả, bền vững nguồn thải hỗn hợp rắn - lỏng từ các lò giết mổ tập trung thực hiện trong khuôn khổ Chương trình khoa học trọng điểm cấp nhà nước KC.08.31/11-15 của nhóm tác giả Đỗ Tiến Anh và NNK (2015) .
Như vây, công nghệ xử lý nước thải giết mổ gia súc, gia cầm đã được nghiên cứu và áp dụng tại nhiều nơi trên thế giới cũng như tại nước ta, tuy nhiên hiệu quả về môi trường cũng như kinh tế chưa thật sự cao. Đồng thời, việc chuyển giao, áp dụng các giải pháp công nghệ cần được tiến hành và thực hiện phù hợp với điều kiện đặc thù tại từng khu vực, cơ sở giết mổ khác nhau. Do đó, việc ứng dụng công nghệ bể sinh học kết hợp màng khí nâng để xử lý ô nhiễm nước thải giết mổ từ các lò giết mổ lợn tập trung là hướng nghiên cứu mới, khắc phục các nghiên cứu trước như dùng hệ vi sinh vật bản địa để xử lý nước thải thông qua 1 quá trình hiếu khí mãnh liệt để xử lý đồng thời các bon và nitơ và kết hợp màng khí nâng. Sử dụng màng khí nâng cải thiện hiệu quả bít tắc của màng, đồng thời điều kiện vận hành tối ứu hơn khi bể sinh học duy trì ở nồng độ MLSS thấp, làm tăng tốc độ lọc nước, có tiềm năng ứng dụng cao ở điều kiện khí hậu nhiệt đới để xử lý nước thải đạt hiệu quả cao, thân thiện hơn với môi trường, ít sử dụng hóa chất, bùn thải từ quá trình xử lý nước thải đưa vào bể biogas để gia tăng thêm lượng khí thu được, đồng nghĩa với việc tận thu thêm năng lượng và không tạo ra các chất thải thứ cấp có thể gây ảnh hưởng tới môi trường.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Đối tượng khảo sát nước thải giết mổ tại cơ sở giết mổ lợn Thịnh An, Thanh Trì, Hà Nội
Lưu lượng sử dụng nước và nước thải của lò giết mổ Thịnh An dao động trong khoảng 190 - 200 m3/ngày,đêm. Nước thải phần lớn sinh ra qua các khâu mổ bụng, pha thịt, làm lòng. Bởi vậy, đề tài đã thực hiện lấy mẫu tại 2 điểm: điểm thứ nhất (rửa 1) lấy tại vị trí sau khi mổ; điểm thứ 2 (rửa 2) lấy tại vị trí sau khi hoàn thành tất cả các công đoạn, tại cống thải chung của lò giết mổ. Kết quả cho thấy, đối với nước thải ngay sau khi mổ (rửa 1) các chỉ tiêu: COD, BOD5, TSS, amoni, tổng nitơ, tổng phốt pho, Fe, Mn và độ màu có nồng độ vượt mức quy định so với cột B của QCVN 40:2011/BTNMT. Trong đó COD vượt 12,6 lần; BOD vượt 20,22 lần; TSS vượt 5,25 lần; amoni vượt 8,75 lần; tổng N vượt 6,52 lần; tổng P vượt 10,8 lần; hàm lượng Fe vượt 3,34 lần; hàm lượng Mn vượt 1,4 lần; độ màu vượt 34, 5 lần. Đối với nước thải chung có cả khâu chế biến nội tạng (rửa 2) các chỉ tiêu: COD, BOD5, TSS, amoni, tổng nitơ, tổng phốt pho, Mn và độ màu có nồng độ vượt mức quy định so với cột B của QCVN 40:2011/BTNMT. Trong đó COD vượt 13,89 lần; BOD vượt 20,38 lần; TSS vượt 9,77 lần; amoni vượt 9,43 lần; tổng N vượt 8,3 lần; tổng P vượt 6 lần; hàm lượng Mn vượt 1,9 lần; độ màu vượt 38, 1 lần.
2.2. Phương pháp nghiên cứu: Kết hợp màng lọc và hệ xử lý vi sinh (MBR) quy mô phòng thí nghiệm
Hệ thống MBR quy mô phòng thí nghiệm bao gồm: thùng đựng nước thải chưa xử lý; bể phản ứng thiếu khí (dung tích hữu dụng 20 lít); bể phản ứng hiếu khí (dung tích hữu dụng 10 lít); bộ gồm 5 modul màng vi lọc; bơm hút qua màng; bơm tuần hoàn bùn, máy nén khí; thùng đựng nước sau xử lý.
Hình 1: Sơ đồ khối hệ thống xử lý nước thải MBR quy mô phòng thí nghiệm
Sau khi đã nghiên cứu đánh giá được hiệu quả xử lý của các bể sinh học và năng suất lọc màng. Điều kiện tối ưu để nghiên cứu vận hành hệ thống như sau:
+ Thời gian lưu nước thủy lực tổng cộng từ 18 - 20 giờ.
+ Yêu cầu hàm lượng sinh khối (MLVSS) trong các bể xử lý vi sinh được duy trì từ 4.000 - 6.000mg/l.
+ Tốc độ nước đi qua màng là 0,8 m/s, áp suất nước vào màng là 0,2 bar, tốc độ khí nâng là 0,2 lít/phút.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tiến hành thí nghiệm mô hình xử lý chất thải lò giết mổ trên quy mô phòng thí nghiệm. Các kết quả thí nghiệm của quy mô nhỏ hơn sẽ làm cơ sở để thí nghiệm và hoàn chỉnh mô hình hệ thống lớn hơn. Tại quy mô phòng thí nghiệm, mô hình xử lý nước thải giết mổ được lắp đặt tại Trạm Khí tượng Nông ngiệp thuộc Viện Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu, sau do điều kiện thực nghiệm hệ thống xử lý nước thải đã chuyển về Xưởng thực hành của Viện Công nghệ Môi trưởng thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Các mẫu nước thải được lấy từ lò giết mổ lợn Thịnh An, Thanh Trì, Hà Nội. Đề tài dùng chế phẩm vi sinh thuần chủng dùng cho phòng thí nghiệm phục vụ cho xử lý nước thải giết mổ.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Kết quả hệ sinh học
Về vấn đề xử lý COD, kết quả nghiên cứu thu được về CODvào của 2 loạt bình thí nghiệm dao động từ 1.361- 1.620 mg/l, CODra của bình bổ sung chế phẩm (CODra BSCP) thấp ngay ở mẻ thứ nhất đến mẻ thứ 3 (COD dao động từ 129 - 99 mg/l) hiệu suất đạt 92 - 93%. Đối với bình không bổ sung chế phẩm COD (CODra KBSCP) sau xử lý dao động từ 720 - 406 mg/l của các mẻ từ 1- 4, hiệu suất xử lý COD đạt 56 - 74%. Điều đó khẳng định khi bổ sung chế phẩm sẽ làm giảm được thời gian xử lý và xử lý triệt để hơn, nghĩa là chế phẩm vi sinh tạo ra từ luận án này có vai trò tăng cường hiệu quả xử lý trên đối tượng nước thải giết mổ gia súc.
Về năng lực xử lý nitơ tổng, TN đầu ra của bình bổ sung chế phẩm có sự biến động lớn không giống COD đầu ra (COD đầu ra luôn ổn định và đạt hiệu suất xử lý cao ở các thời gian). Trong khi đó, TN đầu ra của bình không bổ sung chế phẩm cao và cũng có khoảng biến thiên nhỏ từ 125 - 138 mg/l (Hình 3) cho thấy, hiệu suất xử lý TN của bình không bổ sung chế phẩm là thấp và chỉ đạt 10 - 30%. Điều đó chứng tỏ mật độ vi sinh trong nước thải thấp nên khả năng xử lý kém. Trong khi hiệu suất xử lý TN của bình bổ sung chế phẩm cao. Đạt giá hiệu suất cao nhất từ 76 - 86% khi bùn lưu trong 7 ngày.
3.2. Kết quả chạy thử nghiệm màng lọc
Trong các thử nghiệm trước đối với màng lọc, hiệu quả lọc màng đối với nước sạch đã được đánh giá. Tiếp tục trong quá trình nghiên cứu hệ thống MBR tích hợp màng lọc với hệ vi sinh, hiệu quả lọc màng đối với nước thải được thử nghiệm đánh giá. Sau khi khảo sát được điều kiện tối ưu để vận hành hệ thống màng lọc, hệ thống màng lọc với nước thải được khởi động. Trong quá trình vận hành năng suất lọc của hệ màng sẽ giảm dần theo thời gian, vì vậy, để đảm bảo sự ổn định lưu lượng nước đầu ra phải có công đoạn rửa màng trong quá trình vận hành hệ thống.
Hình 2. Năng suất lọc của hệ thống màng (lưu lượng khí nâng Qk = 0,2l/ph)
Hiệu quả của quá trình rửa màng được chỉ ra ở Hình 3, trong đó mỗi lần đo lưu lượng nước ra để tính năng suất lọc của màng được tiến hành với tần suất 4 lần đo trên ngày. Sau khi rửa màng bằng hóa chất, năng suất lọc của màng tăng mạnh. Tuy nhiên năng suất lọc lại giảm rất nhanh ở lần đo tiếp theo. Ở lần rửa hóa chất đầu tiên năng suất lọc của màng đã tăng từ 470 ml/giờ lên 910 ml/giờ sau đó lại giảm xuống 450 ml/giờ trong 12 lần đo tiếp theo (tương ứng với 3 ngày). Ở lần rửa hóa chất thứ 2 năng suất lọc của màng đã tăng từ 300 ml/giờ lên 890 ml/giờ sau đó lại giảm xuống 470 ml/giờ trong 11 lần đo tiếp theo (tương ứng với gần 3 ngày).
Đối với giai đoạn rửa màng bằng nước sạch (Hình 4) ta thấy, năng suất lọc trong khoảng giá trị 450±50 ml/giờ. Quá trình rửa màng bằng nước sạch hiệu quả không được cao như rửa màng bằng hóa chất. Sau khi rửa năng suất lọc chỉ tăng tối đa là 50 ml/giờ. Tuy nhiên, do quá trình rửa màng diễn ra hàng ngày nên giá trị năng suất lọc rất ổn định; vì vậy nhóm nghiên cứu cũng đã chọn phương pháp này để duy trì trong quá trình hoạt động của màng.
Hình 3. Hiệu quả của quá trình rửa màng bằng hóa chất và nước sạch
4. Kết luận
Môi trường các lò giết mổ ở nước ta hiện nay chưa được quan tâm đúng mức. Chất thải lò giết mổ phần lớn được thải ra ngoài môi trường, chưa qua xử lý, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng tới sức khỏe và đời sống nhân dân, gây bức xúc trong nhân dân. Một số nơi, các lò giết mổ đã có xây dựng hệ thống xử lý nước thải hoặc xử lý chất thải rắn, tuy nhiên, các hệ thống này phần lớn hoạt động mang tính đối phó do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Một trong những nguyên nhân chính dẫn tới các chủ lò mổ không hào hứng và không tuân thủ việc xử lý chất thải là khó khăn về tài chính, ngoài ra là do quy trình hệ thống xử lý vẫn còn phức tạp, đòi hỏi phải có quỹ đất lớn, thường không phù hợp với các cơ sở giết mổ có quy mô vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Các kết quả chính của đề tài có thể tóm lược như sau:
1. Hiệu quả xử lý từ việc ứng dụng vi sinh vật bản địa (được phân lập trực tiếp từ nước thải của các lò mổ) trong xử lý ở bể hiếu khí (so sánh với PP khác) gia tăng.
2. Lưu lượng lọc của màng cao hơn khi sử dụng vi sinh vật được tuyển chọn và phân lập (do nồng độ bùn hoạt tính thấp hơn) so với sử dụng bùn hoạt tính từ các hệ thống xử lý nước thải; bởi vậy, năng lượng sử dụng trên một đơn vị nước lọc cũng ít hơn.
5. Kiến nghị
Mô hình xử lý của đề tài tại quy mô phòng thí nghiệm có thể xử lý COD, NH4, TN, TP đạt hiệu suất hơn 95%, 90%, 80%. Chất lượng nước ra đạt tiêu chuẩn loại B QCVN 40: 2011/BTNMT. Nhóm nghiên cứu mong muốn được triển khai ở hệ thống quy mô lớn hơn để có thể đánh giá hiệu quả của mô hình ở cấp độ cao hơn.
Phạm Hải Bằng1
1Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tài nguyên và môi trường
Nguyễn Kiên2
2Trung tâm Nghiên cứu Biến đổi khí hậu
Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu
(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số Chuyên đề III năm 2018)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Performance of Bioreactor and Airlift MBR for Lab-scale Treatment of Slaughterhouse Wastewater in Urban Areas of Vietnam 1Phạm Hải Bằng 1Training Center for Natural Resources and Environment Officers 2Nguyễn Kiên 2Climate Change Research Centre Abstract Cities in Vietnam often encounter the problem of slaughterhouse wastewater being discharged into surfacewater untreated. Additionally, slaughterhouse wastewater management is often hindered by factors such as infrastructure development. In such a context, on-site treatment came out as a low-budget solution for the problem. This study assesses the performance of the bioreactor and the airlift MBR in treating slaughterhouse wastewater in lab-scale; of which, the result justified the merits earnt from adopting microbiological preparation into the system. System startup time was shortened from 6 weeks to 2 weeks. COD and TN treatment efficiency marked 90-96% and 76-86% respectively. AL-MBR filtration speed increased when MLSS concentration remained stable at 1500-2000 mg/l. Post-treatment wastewater reach B level discharge criteria according to QCVN 40:2011/BTNMT. Keywords: AL-MBR, membrane bioreactor, ons-site treatment, slaughterhouse wastewater. |