Banner trang chủ
Thứ Ba, ngày 19/11/2024

Đánh giá một số yếu tố thủy hóa của môi trường nước nuôi trồng thủy sản tỉnh Hải Dương

06/07/2017

     TÓM TẮT

     Hải Dương là một trong những tỉnh có tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt lớn nhất khu vực miền Bắc nước ta. Phát triển nuôi trồng thủy sản (NTTS) trong những năm qua đã góp phần nâng cao thu nhập của xã hội, cải thiện đời sống của người dân trong vùng, bên cạnh những mặt tích cực nó cũng gây những tác động tiêu cực đến môi trường, suy giảm chất lượng nguồn nước và ảnh hưởng trực tiếp đến việc nuôi trồng, bệnh dịch đã xuất hiện thường xuyên. Các yếu tố thủy hóa môi trường nước (nhiệt độ, độ đục, pH, DO, khí H­2S, các muối dinh dưỡng, BOD5, COD) có ảnh hưởng nhiều đến quá trình sinh trưởng và phát triển của các loài nuôi. Cần thiết phải bảo đảm chất lượng môi trường nước tốt nhằm hạn chế rủi ro trong NTTS.

     Từ khóa: Môi trường nước, hiện trạng môi trường, nuôi trồng thủy sản.

ASSESSMENT OF SOME HYDRATION PARAMETERS OF THE WATER ENVIRONMENT IN AQUACULTURE IN HAI DUONG PROVINCE

Tạ Hồng Minh

Hai Duong Department of Natural Resources and Environment

Prof.Dr. Huỳnh Trung Hải

Hanoi University of Science and Technology

ABSTRACT

     Hai Duong is one of the provinces that have the potential for the largest development of freshwater aquaculture in the North of Viet Nam. Aquaculture development in recent years has contributed to enhance the income of society, improve the livelihoods in the area. Besides positive benefits, it also causes negative impacts on the environment, water quality degradation and direct impacts on the aquaculture itself. Disease occurs regularly. Hydration parameters of the water environment (temperature, turbidity, pH, DO, H2S, nutrient salts, BOD5, COD) can affect the growth and development of the species. It is necessary to ensure good quality of the water environment to minimize risks in aquaculture.

     Keywords: Water environment, environmental status, aquaculture.

     1. Mở đầu

     Hải Dương là một trong những tỉnh có tiềm năng phát triển NTTS nước ngọt lớn nhất khu vực miền Bắc nước ta, có vị trí, điều kiện kinh tế xã hội, thị trường và cơ sở hạ tầng thuận lợi cho phát triển nghề NTTS. Toàn tỉnh có diện tích NTTS là 10.000 ha được phân bố tại 234 xã thuộc có 12 huyện, thành phố, với 23 khu vực nuôi thủy sản tập trung của hợp tác xã, tổ chức, tư nhân và các hộ  nuôi thủy sản.

     Trên cơ sở thế mạnh của địa phương, trong thời gian qua chính quyền các cấp của tỉnh cùng các cơ quan Trung ương đã tạo mọi điều kiện để phát triển ngành thủy sản theo hướng nuôi trồng tập trung. Tháng 2/2009, UBND tỉnh ra Quyết định số 746/QĐ-UBND về việc phê duyệt báo cáo quy hoạch vùng NTTS tập trung với mục tiêu “ Phấn đấu NTTS đến năm 2020 đạt diện tích là 12.500 ha, với 38 vùng nuôi tập trung, sản lượng phấn đấu đạt 75.570 tấn, thu hút 125.000 lao động trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản...”.

     Phát triển NTTS trong những năm qua đã góp phần nâng cao thu nhập của xã hội, cải thiện đời sống của người dân trong vùng, bên cạnh những mặt tích cực nó cũng gây những tác động tiêu cực đến môi trường, suy giảm chất lượng nguồn nước và ảnh hưởng trực tiếp đến việc nuôi trồng, bệnh dịch đã xuất hiện thường xuyên. Nguyên nhân chủ yếu được xác định là do chất lượng nguồn nước nuôi bị suy thoái làm giảm khả năng tự làm sạch của ao nuôi, cùng với đó lượng chất kháng sinh sử dụng không đúng cách đã giảm khả năng kháng bệnh của đối tượng nuôi khiến chúng dễ bị ảnh hưởng khi có thay đổi của môi trường, nguồn bệnh dễ lây lan và bùng phát trong toàn vùng.

     Vấn đề đặt ra là phải đánh giá được đặc trưng chất lượng môi trường nước trong các vùng NTTS tập trung và tìm ra được những ảnh hưởng của quá trình NTTS đến môi trường.

     2. Phương pháp nghiên cứu

     2.1. Đối tượng và phạm vi

     Đối tượng nghiên cứu là môi trường nước NTTS tỉnh Hải Dương. Phạm vi nghiên cứu là bốn xã thuộc 4 huyện: (1) Xã Minh Hòa - huyện Kinh Môn, (2) xã An Đức - huyện Ninh Giang, (3) xã Tân Kỳ - huyện Tứ Kỳ, (4) xã Cẩm Đoài - huyện Cẩm Giàng (Hình 1).

 

Hình 1. Vị trí nghiên cứu của tỉnh Hải Dương

 

     2.2. Phương pháp và thiết bị quan trắc

     a. Lấy mẫu và bảo quản mẫu

     TCVN 6663-3:2003 (ISO 5667-3:1985): Phần 3 - Hướng dẫn bảo quản và xử lý mẫu.

     TCVN 5994:1995 (ISO 5667-4:1987): Hướng dẫn lấy mẫu ở hồ ao tự nhiên và nhân tạo.

      Lấy mẫu nước bằng Niskin: Van Dorn Sampler thể tích 2 lít và 5 lít.

     b. Phương  pháp xác định các thông số môi trường của khu vực nghiên cứu

     Các thông số xác định ngoài hiện trường: Độ dẫn, độ đục, pH, độ muối được đo bằng máy TOA; DO, nhiệt độ xác định bằng máy đo nhanh TOA 2500.

    Các thông số hóa học trong phòng thí nghiệm được xác định theo các phương pháp phân tích và trang thiết bị được thể hiện trong Bảng 1. Trong quá trình thu mẫu và phân tích đều có áp dụng QA/QC.

 

 

Bảng 1. Phương pháp, trang thiết bị phân tích các chỉ tiêu lý hóa

TT

Thông số quan trắc

Đơn vị

Phương pháp               phân tích

Trang thiết bị thực hiện

1

COD

mg/l

Method 5220- D

Máy phá mẫu HACH 45600-02 & Spectrophoto meter DR/2500 

2

BOD5

mg/l

TCVN 6001 - 1996

Máy đo oxy hòa tan YSI 5000

Tủ ấm CO–80539 USA–Model 205

3

T-N

mg/l

St.Method 4500-N

Máy phá mẫu HACH 45600 - 02 & Spectrophoto meter DR/2500

4

T-P

mg/l

St. Method 4500 - P

Spectrophoto meter DR/2500 

5

N-NH4+

mg/l

TCVN6179/1- 1996

Spectrophoto meter DR/2500 

6

N-NO2-

mg/l

TCVN 6178:1996

Spectrophoto meter DR/2500 

7

N-NO3-

mg/l

TCVN 6180:1996

Spectrophoto meter DR/2500 

8

P-PO43-

mg/l

TCVN 6202:2008

Spectrophoto meter DR/2500 

9

Si-SiO32-

mg/l

TCVN 4562 - 1988

Spectrophoto meter DR/2500 

10

Khí H2S

mg/l

TCVN 4562 - 1988

Spectrophoto meter DR/2500 

11

Coliform

MNP/100ml

TCVN 6187/2 -1996

Tủ ấm MEMMERT

 

 

     3. Kết quả và thảo luận

     3.1. Các yếu tố thủy lý

     a. Nhiệt độ

     Nhiệt độ trong các ao là yếu tố vật lý ảnh hưởng rất lớn đến cá, tôm, mỗi loài cá, tôm thường có khoảng nhiệt độ thích hợp mà trong khoảng đó khi nhiệt độ tăng cao sẽ cho kết quả sinh trưởng tỷ lệ thuận. Theo Bảng 2, nhiệt độ thích hợp của cá chim trắng, rô phi, trắm cỏ, tôm sinh trưởng và phát triển từ 280C - 300C. Khi nhiệt độ tăng quá cao trên 420C, hoặc quá thấp dưới 60C - 70C sẽ làm cá chết. Sự thay đổi nhiệt độ đột ngột (chênh nhau trên 4 độ) sẽ làm cá bị sốc, chết.

 

Bảng 2. Khoảng nhiệt độ thích hợp với sự phát triển của đối tượng nuôi

Loại cá

Nhiệt độ

sinh trưởng

(0C)

Nhiệt độ thích hợp (0C)

Nhiệt độ

bị cóng

(0C)

Nhiệt độ

bị chết

(0C)

Cá chim trắng

21-32

28-30

< 12

<7, >42

Cá rô phi

20-32

28-30

< 10

<7, >42

Cá trắm cỏ

13-32

22-28

< 10

<6, >42

Tôm sú

18-36

28-30

12-15

<15, >42

 

 

     Sự thay đổi nhiệt theo chu kỳ ngày - đêm, với giá trị nhiệt cao nhất vào lúc xế chiều (14-16 giờ) và thấp nhất vào lúc rạng sáng nếu không có nhiễu động thời tiết; sự chênh lệch nhiệt độ giữa các tầng mặt và tầng đáy của các ao không chênh lệch nhau nhiều, chỉ trên dưới 10C [9].

     b. Độ đục

     Buck (1956) chia độ đục của ao nuôi thủy sản làm 3 mức: Ao trong có độ đục dưới 25 NTU, ao vừa độ đục từ 25 ÷ 100 NTU, ao đục có độ đục trên 100 NTU. Đối với cá khi độ đục cao cá khó hô hấp, cường độ bắt mồi giảm. Độ đục thích hợp cho ao nuôi cá là từ 20 ÷ 30 NTU, đối với ao nuôi tôm là 30 ÷ 45 NTU. Nước quá trong thì nghèo dinh dưỡng, tuy nhiên nếu quá đục thì sẽ dẫn đến hiện tượng phì dưỡng, làm cho môi trường nước thiếu oxy [9].

     3.2. Các yếu tố thủy hóa

     a. Độ pH

     Độ pH ảnh hưởng trực tiếp tới cá, tôm, pH thấp có thể làm tổn thương tới phần phụ, mang, quá trình lột xác và cứng vỏ tôm [3] làm cá chậm phát dục, không đẻ hoặc đẻ rất ít; pH nước ao nhỏ hơn 4, lớn hơn 11 làm tôm, cá chết, pH từ 4 - 6,5 và 9 - 11 sinh trưởng chậm, khả năng hấp thụ thức ăn kém.

     b. Độ oxy hòa tan (DO)

     Giá trị DO biểu thị nồng độ oxy hòa tan trong nước, lượng oxy hòa tan trong nước chủ yếu do quá trình quang hợp của thực vật phù du và phần nhỏ khuếch tán từ khí quyển vào [8]. Chanratchakool (1995) nhận xét hàm lượng oxy hòa tan trong nước nhỏ hơn 4 mg/l sử dụng thức ăn kém dễ nhiễm bệnh [3]. Chiu (1992) thông báo lượng oxy hòa tan nhỏ hơn 3,5 mg/l sẽ gây chết tôm [4]. Theo Swingle (1969) thì nồng độ oxy hòa tan trong nước lý tưởng cho tôm, cá là trên 5 mg/l. Mỗi loài cá khác nhau có ngưỡng oxy khác nhau nếu oxy trong nước 2 mg/l thì cá mè lười ăn, cá nổi đầu; giảm xuống 1 mg/l cá mè ngừng ăn. Khi oxy trong nước tiếp tục giảm xuống còn 0,5 - 0,6 mg/l cá nổi đầu, nếu kéo dài sẽ chết. Cá mè phát triển tốt ở hàm lượng ôxy hòa tan trung bình 4 mg/l.

     c. Hydro sulphit (H2S)

     Khi pH thấp và nhiệt độ thấp lượng H2S chiếm tới 99% là H2S gây độc (nhiệt độ = 200C, pH = 5). Ở những nồng độ thấp hơn, khí H2S không gây độc hại trực tiếp đối với cá mà làm tiêu hao oxy của môi trường (Bảng 3).

 

Bảng 3. Sự biến đổi H2S lien quan với pH và nhiệt độ

Độ pH

Nhiệt độ

20 0C

26 0C

320C

5,0

99,2

99,0

98,9

7,0

54,6

49,7

45,0

9,0

1,2

1,0

0,8

 

 

     Hàm lượng gây độc hại cho cá khoảng 0,01 mg/l. Vào mùa hè, khí H2S được hình thành nhiều ở nền đáy ao nuôi làm hạn chế sự phát triển của nhiều loại động vật đáy, hạn chế thức ăn tự nhiên của một số loài cá dẫn đến năng suất cá bị giảm. Vào mùa đông, sự tích lũy khí H2S ở đáy ao nhiều bùn gây nên hiện tượng thiếu oxy có thể dẫn đến cá chết, nhất là các ao không thay nước.

     d. Các muối dinh dưỡng

     Ammonia (NH3)

     Losodor (1989) cho rằng: “Thức ăn dư thừa và các chất thải của cá ra môi trường nuôi được vi sinh vật phân hủy thành ammonia, khi pH bằng 8,75 có tới 30% các nitrogen tổng số ở dạng phức (NH3) bền vững và gây độc cho cá. NH­3 là khí độc đối với tôm cá, nồng độ NH3 gây độc đối với cá là 0,6 - 2,0 mg/l (Downing và Markins, 1975; trích dẫn bởi Boyd, 1990). Theo Colt và Armstrong (1979) (trích dẫn bởi Boyd, 1990) tác dụng độc hại của NH3 đối với cá là khi hàm lượng NH3 trong nước cao, cá khó bài tiết được NH3 từ máu ra môi trường ngoài. Khả năng chịu đựng với NH3 của các loài cá khác nhau nhưng thường cá trôi, mè trắng chịu đựng kém nhất, sau đó là cá mè hoa, trắm cỏ, cá chép. Nồng độ NH3 được coi là an toàn và thích hợp cho ao nuôi cá là 0,15 mg/l, đối với tôm là 0,13 mg/l.

     Ammonium (NH4+)

     Sự tồn tại NH4+ trong nước phụ thuộc vào pH, khi pH bằng 7 hầu hết các nitrogen tổng số đều ở dạng ion NH4+, rất cần thiết cho sự phát triển của các sinh vật, nhưng nếu hàm lượng NH4+ quá cao sẽ làm cho thực vật phù du phát triển quá mức không có lợi cho cá (thiếu oxy vào sáng sớm, pH dao động...). Theo Boyd (1990) hàm lượng NH4+ thích hợp cho ao nuôi thủy sản là 0,2-2 mg/l. NH4+ thường ít độc hơn NH3 nhưng khi nồng độ tăng cao sẽ gây độc cho thủy sinh vật [5], nồng độ gây chết của NH4+ ở dạng phức đã được xác định cho nhiều loài nhưng ngưỡng dưới mức chết chưa được xác định và ở mức này có thể làm giảm tốc độ sinh trưởng của cá thể (Wiliam A.Wurts, 2005).

     Nitrite (NO2-)

     Das P.C và ctv (2003) [1], Wiliam A.Wurts, 2005) và Thormat M.L (1998) đã cho rằng: “Nitrite được sinh ra từ đạm ammonia trong môi trường nước. Nitrite vừa là sản phẩm của quá trình Nitrate hóa và phản Nitrate hóa rất cần thiết cho hoạt động sống của thực vật đơn bào, NO2- thường tồn tại ở dạng trung gian và hàm lượng trong nước rất thấp. Robert M.Durborow, David M. Crosby và Martin W.Brunson (1997a, b) cho rằng: “Nếu môi trường thiếu oxy thì quá trình chuyển hóa chỉ đến nitrite (NO2-)”.

     Theo Schwedler et al (1985), Losordo T.M (1994), Nguyễn Đình Trung (2002) cho rằng: “Những nhân tố ảnh hưởng đến độ độc của nitrite gồm: hàm lượng chloride, pH, kích cỡ cá, tình trạng dinh dưỡng, dịch bệnh, hàm lượng oxy hòa tan...”, do đó không thể xác định được nồng độ gây chết, nồng độ an toàn của nitrite trong NTTS. Tính độc của nitrite biến đổi rất rộng giữa các loài, thậm chí trong cùng một loài (Jane Frances và ctv, 1998). Giá trị LC50 của nitrite với giáp xác, nhuyễn thể và cá, đã được Colt và Armstrong (1981) xác định nằm trong khoảng 27,88-50,51 mg/l, và độ an toàn từ 2,79-5,05 mg/l.

     Nitrate (NO3-)

     Nitrate là sản phẩm cuối cùng của quá trình sự khoáng hóa các chất hữu cơ có chứa Nitơ, Nitrate là một trong những dạng đạm được thực vật hấp thụ dễ nhất, không độc với thủy sinh vật. Nhưng khi nồng độ nitrate trong môi trường nước quá cao gây tác động đến động vật thủy sinh [9]. Điều này cũng được Thomat M.L. (1998) nhận định: “Khi hàm lượng nitrate trong môi trường nuôi cao sẽ không có lợi cho nuôi trồng thủy sản”. Ở các ao nuôi cá nước ngọt hàm lượng thích hợp từ 0,1 ÷ 10 mg/l, hàm lượng nitrate cao không gây độc cho cá nhưng có thể làm thực vật phù du “nở hoa” gây biến đổi chất lượng nước, không có lợi cho đối tượng nuôi.

     Phốt phát (PO43-)

     Trong nước phốt phát tồn tại ở các dạng H2PO4, HPO42- và PO43-, khi phân tích thì thường xác định dưới dạng P-PO43-. Trong các ao nuôi, hàm lượng các muối hòa tan của phosphate (P-PO43-) trong nước thường rất thấp khoảng 5 ÷ 20 μg/l và ít khi vượt quá 200 μg/l, ngay cả đối với ao nuôi giàu dinh dưỡng. Hàm lượng T-P cũng ít khi vượt quá 1.000 μg/l. Hàm lượng P-PO43- thích hợp cho các ao nuôi cá là từ 5 ÷ 200 μg/l, nếu hàm lượng P-PO43- nhỏ hơn 5 μg/l thì thực vật phù du không phát triển nhưng nếu hàm lượng P-PO43- vượt quá 200 μg/l thì thực vật phù du sẽ “nở hoa” làm ánh sáng bị che khuất, giảm hiệu quả quang hợp, tăng lượng chất hữu cơ do tảo bị tàn lụi, làm ao thiếu oxy cá sinh trưởng chậm, nếu thời gian kéo dài sẽ chết.

     e. Oxy tiêu hao (BOD5, COD)

     Trong môi trường nuôi tôm, cá có hai chỉ tiêu nghiên cứu chất lượng nước là BOD5 và COD được dùng để đánh giá mức độ nhiễm bẩn, độ giàu nghèo chất dinh dưỡng, đồng thời còn biết sự phát triển của thủy sinh vật trong ao nuôi.

     Theo các chuyên gia ngành NTTS khi chỉ số BOD5 > 5 mg/l thì ao nuôi bắt đầu có hiện tượng ô nhiễm chất hữu cơ và BOD5 > 10 mg/l có thể kết luận ao nuôi bị ô nhiễm [8]. Giá trị COD phản ánh mức độ gia tăng chất hữu cơ trong ao nuôi do thức ăn, sản phẩm bài tiết của tôm cá và sự chết của sinh vật gây ra. Trong ao nuôi tôm cá sự biến đổi COD tăng dần từ đầu vụ tới cuối vụ, thường đầu vụ có hàm lượng COD thấp 8 ÷ 16 mg/l, cuối vụ nuôi có thể tới 25 ÷ 38 mg/l. Mối quan hệ giữa COD và BOD5 còn thể hiện qua chỉ số BOD5/COD có liên quan đến vi khuẩn trong nước, các chất hữu cơ được sinh ra trong ao nuôi. Chỉ số BOD5/COD cao thì môi trường bị ô nhiễm bởi các chất hữu cơ dễ tan, dễ phân hủy (thức ăn dư thừa, chất thải của tôm cá, xác thủy sinh chết).

     4. Kết luận

     Phát triển NTTS trong những năm qua đã góp phần nâng cao thu nhập của xã hội, cải thiện đời sống của người dân trong vùng, bên cạnh những mặt tích cực cũng gây những tác động tiêu cực đến môi trường, suy giảm chất lượng nguồn nước và ảnh hưởng trực tiếp đến việc nuôi trồng, bệnh dịch đã xuất hiện thường xuyên. Chất thải từ các hoạt động con người, phần lớn là từ sinh hoạt dân cư đã làm giảm nồng độ oxy hòa tan, tăng cao nhu cầu oxy, hàm lượng chất rắn lơ lửng, chất hữu cơ và các muối dinh dưỡng, đặc biệt là các chất dinh dưỡng chứa nito và phospho. Ngoài ra hoạt động NTTS có thể làm tăng cao nhu cầu oxy và nồng độ của các chất dinh dưỡng nito và phospho■

     TÀI LIỆU THAM KHẢO

      TCVN 6663-3:2003 (ISO 5667-3:1985), Chất lượng nước - Lấy mẫu - Phần 3: Hướng dẫn bảo quản và xử lý mẫu.

      TCVN 5994:1995 (ISO 5667-4:1987), Chất lượng nước - Lấy mẫu. Hướng dẫn lấy mẫu ở hồ ao tự nhiên và nhân tạo.

      Nguyễn Văn Thanh, (2004), Nghiên cứu diễn biến môi trường nước do hoạt động nuôi tôm ở tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau ảnh hưởng xấu tới môi trường và đề xuất các biện pháp khắc phục, Báo cáo tổng kết đề tài, Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và xử lý nước - Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam, TP.Hồ Chí Minh. 

        Nguyễn Hữu Thọ (2006), Hướng dẫn kỹ thuật nuôi cá nước ngọt, NXB Lao động Xã hội, Hà Nội. 

      Das P.C., Ayyappanb S., Jenac J.K. and B.K. Dasc (2003), Nitrite toxicity in Cirrhinus mrigala (Ham): Acute toxicity and sub - lethal effect on selected haematological parameters, Central Institute of Freshwater Aquaculture, Kaushalyagang, Bhubaneswar-751002, Orissa, India, 2003, 15pg. 

       Dr.Gaudiosa Almazan, Gonzales (1995), Pond limnology and water quality parameters, Aquaculture Department southeast Asian fishries Development Center Tigbauan, Iloilo, Philippines.  

      P.Chanratchakool, J.F.Turnbull and C.Limsuwan (1995), Health management in shrimp pond, Aquatic Animal Health Research Institute, Kasetsart University Campus, Jatujakm Bangkok 109000 Thai Land. 

         P.Chiw Liao (1992), Marine prawn culture industry of Taiwan, In Marines shrimp culture: principle and pacties. Elsevier - Amsterdam - London - New York - Tokyo, pg. 653 - 674. 

     Sten I.Siikavuopioa, Trine Dalea, Atle Fossb and Atle Mortensena (2004), Effects of chronic ammonia exposure on gonad growth and survival in green sea urchin Strongylocentrotus droebachiensis, Anorwegian Institute of Fisheries and Aquaculture Research, Troms N - 9291, NorwaybAkvaplan - niva, Bergen Office, Nordnesboder 5, N - 5005 Bergen, Norway, 12pg. 

Tạ Hồng Minh 1

Huỳnh Trung Hải 2

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Sở TN&MT Hải Dương

GS.TS, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

(Tạp chí Môi trường số chuyên đề I năm 2017)

 

 

Ý kiến của bạn