02/08/2018
Doanh nghiệp (DN) thời hội nhập cần nghiêm túc tuân thủ trách nhiệm đối với BVMT và người lao động, vì đó là động lực cho sự phát triển ổn định, bền vững… Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần tăng cường năng lực thể chế, hoàn thiện cơ sở pháp lý, kiện toàn bộ máy, đồng bộ trong công tác BVMT và lao động, kiên quyết xử lý những hành vi vi phạm, đồng thời hỗ trợ tích cực cho các tổ chức xã hội, BVMT và người lao động.
BVMT và người lao động là trách nhiệm xã hội trong văn hóa DN thời hội nhập
Văn hóa doanh nghiệp (VHDN) được coi là đặc trưng, tài sản và nền tảng để phát triển DN, là tổng hòa các nhận thức và hoạt động liên quan đến nghĩa vụ của DN đối với Nhà nước (nộp thuế, tuân thủ pháp luật…) ; với xã hội (tôn trọng quyền lợi người tiêu dùng, hợp đồng với đối tác và BVMT, làm từ thiện…) và trong ứng xử nội bộ của DN (quan hệ đồng nghiệp, cấp trên - cấp dưới, lao động với chủ sử dụng lao động, các ứng xử và giá trị truyền thống tinh thần giữa các đơn vị, cá nhân trong DN...).
Trách nhiệm xã hội (TNXH) của DN phản ánh sự quan tâm và phản ứng của DN với các vấn đề vượt ra ngoài việc thỏa mãn những yêu cầu pháp lý, kinh tế, công nghệ; bao gồm cả sự mong đợi của xã hội về kinh tế, luật pháp, đạo đức và lòng từ thiện, tính bền vững, trách nhiệm môi trường đối với các tổ chức tại một thời điểm nhất định…
Như vậy, có thể thấy cả VHDN và TNXH của DN đều có điểm chung, bên cạnh những nguyên tắc và lợi ích phát triển riêng của từng DN phù hợp với pháp luật hiện hành. Do đó, mọi DN cần quan tâm và phải gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của mình với lợi ích phát triển chung của cộng đồng xã hội. Trước hết, trách nhiệm với thị trường và người tiêu dùng; trách nhiệm BVMT; với người lao động và cộng đồng. Đặc biệt, ứng xử của DN với môi trường và người lao động là 2 nội dung quan trọng về TNXH trong VHDN, bên cạnh các nội dung khác về mức độ tuân thủ pháp luật, sự tôn trọng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, uy tín, sức hấp dẫn của DN với các đối tác và người tiêu dùng…
Trách nhiệm với môi trường đòi hỏi DN sử dụng công nghệ và quản lý quá trình sản xuất, kinh doanh tiết kiệm các nguồn năng lượng, vật liệu và tài nguyên cao (đặc biệt là tài nguyên không tái tạo), ít phát thải và gây tổn hại môi trường…
Trách nhiệm với người lao động không chỉ yêu cầu DN trả lương, đóng bảo hiểm xã hội, y tế, thất nghiệp và bảo đảm các quyền lợi người lao động theo đúng hợp đồng mà còn cần quan tâm đào tạo tay nghề, cải thiện môi trường, thời gian làm việc và bảo vệ sức khỏe, việc làm lâu dài, ổn định cho lao động.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, nhận thức và các thể chế về VHDN và TNXH của DN từng bước hình thành, phát triển được đề cao ở cả cấp vĩ mô, lẫn vi mô.
Ngày 25/9/2012, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1393/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh (TTX); ngày 20/3/2014, ban hành Quyết định số 403/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về TTX giai đoạn 2014 - 2020, với các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện TTX thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050.
Công ty CPHH Vedan Việt Nam phối hợp với Hội Khuyến học huyện Long Thành (Đồng Nai)
trao học bổng cho học sinh, sinh viên vượt khó năm học 2017 - 2018
Đặc biệt, từ năm 2016, Thủ tướng Chính phủ quyết định lấy ngày 10/11 hàng năm là “Ngày Văn hóa DN Việt Nam”, khẳng định vai trò, vị trí và tầm quan trọng của VHDN; tôn vinh các doanh nhân, DN có thành tích xuất sắc trong việc xây dựng VHDN; tuyên truyền, phổ biến và nâng cao nhận thức về VHDN, thúc đẩy việc xây dựng, phát triển VHDN trong cộng đồng DN Việt Nam và toàn xã hội.
Trước đó, Hiệp hội Phát triển VHDN (VNACB) được thành lập theo Quyết định số 2179/QĐ - BNV, ngày 27/12/2003 của Bộ Nội vụ. VNACB là tổ chức xã hội - nghề nghiệp hoạt động với mục đích tập hợp, đoàn kết, hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau trong việc phát triển VHDN, đạo đức kinh doanh, phát huy yếu tố đạo đức nghề nghiệp gắn với TNXH… giữ vai trò là cầu nối giữa hội viên với các cơ quan chức năng của Nhà nước; góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển DN.
Năm 2016, Bảng xếp hạng “DN vì người lao động” được Thủ tướng Chính phủ cho phép nâng lên thành Giải thưởng “DN vì người lao động” và được trao thưởng 3 năm/lần, nhằm khuyến khích DN tạo ra một môi trường làm việc lý tưởng, kiến tạo nên những giá trị tốt đẹp cho xã hội; đồng hành cùng DN trong hội nhập kinh tế thế giới...
Từ năm 2005, Việt Nam đã có Giải thưởng "TNXH hướng tới sự phát triển bền vững" do VCCI khởi sướng, nhằm tôn vinh các DN thực hiện tốt TNXH trong bối cảnh hội nhập. Năm 2006, có 50 DN ngành dệt may và da giày tham dự. Khảo sát cho thấy, nhờ thực hiện các chương trình TNXH, doanh thu của các DN này đã tăng 25%, năng suất lao động cũng tăng từ 34,2 - 35,8 triệu đồng/lao động/năm, tỷ lệ hàng xuất khẩu tăng từ 94% - 97%. Ngoài hiệu quả kinh tế, các DN còn có lợi từ việc tạo dựng hình ảnh với khách hàng, sự gắn bó và hài lòng của người lao động, thu hút lao động có chuyên môn cao…
Đến năm 2017, vinh danh 100/500 DN tham gia Chương trình và ghi nhận thêm những đại diện mới của khu vực tư nhân trong các ngành nghề đa dạng thuộc 2 lĩnh vực sản xuất và thương mại - dịch vụ - xây dựng. Đồng thời, cùng với thu gọn Bộ chỉ số DN bền vững (CSI) từ 151 chỉ tiêu ban đầu xuống 134 tiêu chí trên 3 lĩnh vực kinh tế - xã hội - môi trường. Chương trình “Đánh giá, xếp hạng DN bền vững tại Việt Nam” được tổ chức thường niên, theo chỉ đạo của Chính phủ tại Thông báo số 398/TB-VPCP ngày 15/12/2015 về việc xếp hạng DN bền vững từ năm 2016, nhằm vinh danh và khích lệ các DN trong thực hiện 17 mục tiêu phát triển bền vững như một yêu cầu và xu hướng cấp thiết mang tính toàn cầu, đã được 193 quốc gia thành viên của Liên hợp quốc thông qua từ năm 2015. Những điểm nhấn tích cực nêu trên cho thấy sự quan tâm và sự nỗ lực kiến tạo môi trường thuận lợi của Nhà nước và cải thiện kết quả hoạt động của cộng đồng DN về phát triển bền vững. Dù vậy, con số 500 DN đăng ký tham gia Chương trình, tức chỉ khoảng một phần nghìn trong tổng số hơn nửa triệu DN đang hoạt động trên mọi lĩnh vực và địa bàn cả nước. Điều này cho thấy sự khiêm tốn về số lượng và tiềm năng có thể mở rộng quy mô sân chơi mới này cho cộng đồng DN, nhất là trong lĩnh vực sản xuất tiêu thụ nhiều tài nguyên và năng lượng không tái tạo; không ngừng nhân rộng những điển hình phát triển bền vững, tạo “giấy thông hành thế hệ mới” cho sự tham gia của các doanh nghiệp vào nền kinh tế toàn cầu…
Tăng cường trách nhiệm xã hội của DN FDI đối với BVMT và người lao động
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sau gần 30 mở cửa, Việt Nam đã đạt được nhiều thành công đáng ghi nhận về thu hút dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tính đến năm 2017, Việt Nam thu hút 2.591 dự án FDI mới, với tổng 21,3 tỷ USD, tăng 3,5% về số dự án và tăng 42,3% về vốn so với cùng kỳ năm 2016; có 1.188 lượt dự án tăng vốn đầu tư đạt 8,4 tỷ USD, tăng 49,2%; 5.002 lượt nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần là 6,2 tỷ USD, tăng 45,1% so với năm 2016. Vốn FDI thực hiện ước đạt 17,5 tỷ USD, tăng 10,8% so với năm 2016. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 47,6% tổng vốn đăng ký mới và bổ sung. Trong đó, Thanh Hóa có số vốn FDI đăng ký lớn nhất, chiếm 14,8% tổng vốn đăng ký cấp mới của 58 tỉnh/ TP trực thuộc Trung ương có dự án FDI được cấp phép mới. Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất chiếm 36,4% tổng vốn đăng ký cấp mới trong số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong năm 2017.
Đến nay, FDI đã có mặt ở cả 63 tỉnh/TP trên cả nước và ngày càng mở rộng trên nhiều lĩnh vực, từ khai khoáng, nông lâm nghiệp đến công nghiệp chế biến và các ngành dịch vụ như bất động sản, y tế, giáo dục, khách sạn... Theo đó, công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng cao nhất (53,8%), tiếp theo là dịch vụ bất động sản (20,9%), còn lại các ngành khác có tỷ trọng dưới 5%. Tổng cộng có 101 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư vào Việt Nam, trong đó, đứng đầu là Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapo, Đài Loan, Hồng Kông…
Khu vực DN FDI đang chiếm khoảng 25% trong tổng đầu tư xã hội (tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2017 theo giá hiện hành ước tính đạt 1.667,4 nghìn tỷ đồng, tăng 12,1% so với năm 2016 và bằng 33,3% GDP. Trong đó, vốn khu vực Nhà nước chiếm 35,7% tổng vốn và tăng 6,7% so với năm trước; khu vực ngoài Nhà nước chiếm 40,5% và tăng 16,8%; khu vực FDI chiếm 23,8% và tăng 12,8%); đóng góp 18,7% GDP, khoảng 19% tổng thu ngân sách Nhà nước, tạo ra là 4 triệu việc làm (năm 2017) và chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm (Riêng Samsung tại Việt Nam mỗi năm đã xuất khẩu khoảng 30 tỷ USD, chiếm khoảng 20% tổng xuất khẩu của Việt Nam) tạo động lực tích cực cải thiện cơ cấu xuất khẩu và cân đối ngoại thương của Việt Nam. Hiện có khoảng 30 DN Việt Nam tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn đa quốc gia.
Lao động trong nhiều DN FDI cũng ngày càng được quan tâm, bảo vệ quyền lợi. Qua rà soát, đánh giá của Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) tỉnh Bắc Giang thực hiện yêu cầu thành lập thư viện thỏa ước điện tử của Tổng LĐLĐ Việt Nam, có tới 80% thỏa ước trên địa bàn tỉnh có lợi cho người lao động (NLĐ), nằm ngoài các quy định bắt buộc của pháp luật lao động. Một số DN thực hiện nghiêm việc ký mới, ký lại hoặc bổ sung phụ lục phát sinh với điều khoản có lợi cho NLĐ như: Công ty TNHH Nichirin Việt Nam (KCN Quang Châu) có điều khoản cho phép công nhân nghỉ giữa ca để giảm căng thẳng; Công ty TNHH Việt Pan Pacific (TP. Bắc Giang) khen thưởng lao động tích cực theo tuần, tháng; Công ty TNHH Haem Vina (KCN Song Khê - Nội Hoàng) phát vitamin cho công nhân nữ có thai và ứng trước tiền lương 6 tháng nghỉ thai sản cho lao động nữ sinh con để bảo đảm chi phí sinh hoạt…
Bên cạnh những thành công kể trên, thu hút FDI trong thời gian qua cũng bộc lộ nhiều bất cập, cụ thể: Chất lượng chưa tương xứng với số lượng; Các dự án FDI có công nghệ trung bình so với thế giới (80%), một phần đáng kể có công nghệ lạc hậu (14%) và chỉ có 6% có công nghệ cao. Việt Nam mới chỉ thu hút khoảng 100/500 Tập đoàn xuyên quốc gia hàng đầu thế giới, trong khi đó, Trung Quốc đã thu hút 400. Ngay cả trong trường hợp thu hút một số tập đoàn công nghệ cao nổi tiếng toàn cầu như Nokia, Samsung... sản xuất tại Việt Nam là công đoạn cuối, tức là chỉ lắp ráp, không đòi hỏi lao động chất lượng cao và công nghệ tiên tiến.
Mặt khác, mối liên kết giữa DN FDI và DN trong nước còn yếu, không hỗ trợ nhiều cho khu vực DN trong nước phát triển. Tỷ lệ sản phẩm đầu vào được mua từ các nhà chế biến, chế tạo trong nước ở tất cả loại hình DN FDI tương đối thấp. Các DN FDI nhập khẩu phần lớn thành phần đầu vào thông qua Công ty mẹ hay nhập trực tiếp, chỉ số ít sử dụng đầu vào từ các DN tư nhân trong nước. Hiện tượng thất thu thuế và chuyển giá trên thực tế là nghiêm trọng.
Thực tế cho thấy, nhiều Công ty hay Tập đoàn đang coi TNXH với môi trường và lao động là “gánh nặng, khi để xảy ra hàng loạt mặt hàng nông sản, thực phẩm không bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, gây hệ lụy tiêu cực đến môi trường. Đặc biệt, tình trạng lao động trong các khu DN có vốn FDI bị thất nghiệp sau tuổi 35 đang gia tăng về TNXH của DN đối với lao động và áp lực an sinh xã hội từ khu vực DN FDI…
Bởi vậy, cần tăng cường nhận thức và chỉ đạo, điều hành việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật thực hiện chính sách quốc gia liên quan đến hoàn thiện các giá trị cụ thể về TNXH của DN đối với môi trường và lao động trong VHDN, hướng cộng đồng dân cư và DN vào các giá trị dân chủ, tiến bộ và phát triển bền vững.
Tăng cường kết nối và kiểm tra theo quy trình đồng bộ trong công tác BVMT và lao động từ Trung ương đến địa phương, đồng thời hỗ trợ tích cực cho các tổ chức xã hội, BVMT và người lao động. Với tinh thần đó, từ 1/1/2018 Bộ luật Hình sự mới của Việt Nam có hiệu lực sẽ xử lý hình sự đối với Pháp nhân thương mại phạm tội. Theo đó, có 33 trong tổng số 317 tội danh trong Bộ luật Hình sự được áp dụng xử lý đối với Pháp nhân thương mại, đó là các tội như buôn lậu, trốn thuế, gây ô nhiễm môi trường, buôn bán hàng cấm và hàng giả... Đây là một bước tiến mới của Luật Hình sự Việt Nam tiệm cận với luật pháp quốc tế. Các DN hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận (không kể các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể, tổ chức phi lợi nhuận) nếu có vi phạm đều sẽ bị xử lý hình sự, không phân biệt DN FDI hay trong nước; không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Đây là một bước tiến bộ hướng tới kiện toàn hệ thống pháp luật của Việt Nam, để tiệm cận với khung khổ pháp lý các nước trên thế giới.
Trên cơ sở đó, các Bộ/ngành, địa phương cần chủ động phân công và phối hợp cụ thể, đề cao trách nhiệm người đứng đầu và cá nhân được giao; đẩy mạnh tuyên truyền, triển khai nghiêm túc, hiệu quả các quy định của pháp luật... Đồng thời, tăng cường thanh tra kiểm tra, kịp thời xử lý các hành vi vi phạm pháp luật BVMT và người lao động; thành lập và giới thiệu các tổng đài, số điện thoại nóng, các trang tin tư vấn, dịch vụ về BVMT và người lao động.
Cần khuyến khích các thiết chế đại diện, trung gian, các tổ chức phi Chính phủ, Hiệp hội, nhóm lợi ích… là các tổ chức dân sự đóng vai trò lớn trong việc ngăn chặn và bảo vệ quyền lợi người lao động và người tiêu dùng về những vi phạm TNXH của DN với môi trường và lao động. Tăng cường giám sát và phản biện xã hội và cả sức ép xã hội cho xây dựng VHDN, đạo đức kinh doanh cho các doanh nhân về trách nhiệm với môi trường và lao động; kịp thời phát hiện và khen thưởng, tôn vinh thích đáng các đơn vị và cá nhân có thành tích, trừng phạt nghiêm khắc các sai phạm...
Xây dựng TNXH của DN với môi trường và lao động trong VHDN ở Việt Nam nhằm tăng cường cam kết của DN đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua việc tuân thủ chuẩn mực về BVMT, bình đẳng về giới, an toàn lao động… Đây là quá trình lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì, bền bỉ và không kém phần quyết liệt, nhằm khẳng định các giá trị chuẩn quốc gia, hình thành môi trường kinh doanh thượng tôn pháp luật, đề cao đạo đức kinh doanh, TNXH, cạnh tranh lành mạnh trong cộng đồng DN.
TS. Nguyễn Minh Phong
ThS. Nguyễn Trần Minh Trí
(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 7/2018)