31/07/2017
Công ty TNHH Một thành viên Lọc hoá dầu Bình Sơn (BSR) đang hoàn tất việc thiết kế tổng thể Dự án nâng cấp, mở rộng Nhà máy lọc dầu Dung Quất, có quy mô vốn đầu tư lên tới 1,806 tỷ USD. Giới chuyên gia đánh giá, chiến lược hợp lý nhất chính là huy động các nguồn lực xã hội tham gia đầu tư dự án mở rộng và góp phần cải thiện năng lực quản trị gắn với cổ phần hóa doanh nghiệp.
Đa dạng “đầu vào”: Gia tăng hiệu quả hoạt động
Nhà máy Lọc dầu (NMLD) Dung Quất được xây dựng với mục tiêu khai thác, sản xuất dầu từ mỏ Bạch Hổ. Đây là mỏ dầu lớn nhất trên thềm lục địa Việt Nam, nằm cách thành phố Vũng Tàu 120km về phía Đông Nam. Các chuyên gia ước tính trữ lượng của mỏ vào khoảng 300 triệu tấn, được khai thác thương mại từ giữa năm 1986. Dầu thô Bạch Hổ dễ lọc, gọi là "dầu ngọt", vì nó chứa ít chất lưu huỳnh, tác hại mài mòn dụng cụ thấp. Sau hơn 30 năm khai thác, sản lượng dầu thô Bạch Hổ đang giảm mạnh.
Từ rất sớm, BSR đã nhận thức rõ thực tế trên và chuẩn bị giải pháp ứng phó. Tháng 8/2010, Công ty đã chế biến thử nghiệm thành công lô dầu thô nhập khẩu đầu tiên từ Azerbaijan, Địa Trung Hải. Việc chế biến thành công lô dầu phối trộn đầu tiên này ghi nhận sự chủ động trong việc đánh giá loại dầu thô có thể chế biến nhằm đa dạng hóa, đảm bảo nguồn cung dầu thô cho NMLD Dung Quất. Tiếp đó, nhằm tối ưu hóa sản xuất, để có thể tiếp nhận những nguồn dầu thô mới mà hàm lượng chua, nặng cao hơn dầu Bạch Hổ, năm 2015, BSR đầu tư dự án Phân xưởng thu hồi lưu huỳnh, nâng tỉ lệ phối trộn của các loại dầu thô lên cao đáng kể. Hiện NMLD Dung Quất có thể lọc, phối trộn được 67 loại dầu. Nhà máy cũng đã chế biến thành công 15 loại dầu thô từ các khu vực khác nhau trên thế giới. Với năng lực như vậy, sản lượng của nhà máy có thể tăng gần 3 lần từ hơn 2,5 triệu thùng/ngày lên hơn 7 triệu thùng/ngày. Điều này, mở ra cơ hội lớn cho nhà máy trong việc lựa chọn nguồn cung cũng như khả năng thay thế hoàn toàn dầu thô Bạch Hổ.
Hoạt động xuất bán sản phẩm của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất
Nhờ chủ động, linh hoạt và đầu tư lớn cho công tác nghiên cứu, thử nghiệm, NMLD Dung Quất có thể tiếp nhận nguồn nguyên liệu đầu vào phong phú, vận hành lên tới 105 - 107% công suất thiết kế mặc dù sản lượng dầu thô Bạch Hổ liên tục sụt giảm.
Hiện nay, dầu thô từ mỏ Bạch Hổ chỉ còn chiếm khoảng 58% nhu cầu sử dụng của NMLD Dung Quất. Theo đánh giá của các chuyên gia, trong 5 năm tới, BSR có thể phát triển ổn định với năng lực xử lý nguyên liệu đầu vào phong phú như trên.
Mở rộng: Tầm nhìn dài hạn
NMLD Dung Quất đến nay mới chỉ cho ra sản phẩm xăng dầu đạt tiêu chuẩn Euro 3 với xăng RON 95 và Euro 2 đối với các sản phẩm còn lại.
Ngay từ năm 2009, khi mới đưa nhà máy vào sử dụng, PVN đã tính đến việc nâng cấp mở rộng nhà máy giai đoạn 2 nhằm sử dụng được nguồn nguyên liệu dầu trong nước và nhập khẩu phong phú hơn, tận dụng các loại dầu khác khi trữ lượng dầu Bạch Hổ giảm dần và hết, đồng thời chế biến ra các sản phẩm xăng dầu đạt tiêu chuẩn ERO 4-5 theo lộ trình của Chính phủ.
Theo nghiên cứu khả thi, dự án mở rộng nhà máy cần tổng vốn đầu tư 1,806 tỷ USD, trong đó vốn chủ sở hữu/vốn vay tối thiểu là 30/70%, tức là phải vay thêm khoảng 1,26 tỷ USD (28.715 tỷ đồng). Mở rộng nhà máy đem lại những lợi ích gì? Trong kế hoạch NCMR, NMLD Dung Quất sẽ tiến hành xây dựng bổ sung các phân xưởng công nghệ để chế biến dầu thô có hàm lượng lưu huỳnh cao hơn, sản lượng/tính sẵn có lớn hơn và sản xuất ra sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng Euro 5. Nhà máy cũng xây dựng bổ sung bến phao SPM cách bến cũ 2 km về phía Bắc để có thể tiếp nhận tàu trọng tải lên tới 300 nghìn tấn.
Như vậy, nguồn cung dầu thô của NMLD Dung Quất sau khi nâng cấp sẽ mở rộng đáng kể so với hiện tại. Dự kiến việc NCMR nhà máy hoàn thành vào năm 2021, khi đó, công suất chế biến sẽ tăng lên 8,5 triệu tấn dầu thô/năm và chất lượng sản phẩm xăng dầu tự tin đáp ứng chỉ tiêu chất lượng Euro 5.
Để củng cố cho việc cung cấp dầu thô cho NMLD Dung Quất trước và sau khi NCMR, BSR đã và đang phối hợp cùng PVOIL xúc tiến đàm phán với các nhà sản xuất, nhà cung cấp để ký kết các Biên bản ghi nhớ (MOU), Thỏa thuận khu (FA) và Hợp đồng khung (COSA) cung cấp dài hạn các loại dầu thô nhập khẩu chiến lược đến năm 2040. Đối với dầu Murban đã ký kết các Biên bản ghi nhớ (MOU) với Total. Đối với dầu thô ESPO đã ký kết Hợp đồng khung (COSA) cung cấp dầu ESPO với các nhà cung cấp dầu ESPO là Rosneft và Gazpromneft, Thỏa thuận khung (FA) cung cấp rổ dầu với đối tác Glencore, Biên bản ghi nhớ (MOU) cung cấp dầu thô Azeri/rổ dầu với nhà cung cấp SOCAR. Câu hỏi thị trường quan tâm lúc này là đồng vốn sử dụng cho việc nâng cấp, mở rộng nhà máy sẽ có hiệu quả đến đâu? Theo ông Trần Ngọc Nguyên, Tổng Giám đốc BSR, tại NMLD Dung Quất, dầu thô hiện chiếm 90% tổng chi phí, trong khi các nhà máy trên thế giới dùng dầu thô là dầu chua, nặng, chi phí giảm xuống còn 80%, dưới 90%. NMLD Dung Quất có được sức cạnh tranh như vậy, lợi nhuận sẽ gia tăng đáng kể, chưa kể giá thành xăng dầu cung cấp ra thị trường sẽ hợp lý hơn.
Rõ ràng, không có con đường nào khác cho NMLD Dung Quất là phải tiếp tục đầu tư để nâng cấp, mở rộng nhà máy nhằm gia tăng sức cạnh tranh và cải thiện hiệu quả hoạt động. Vấn đề đặt ra hiện nay là triển khai các phương án nhằm thu hút được nguồn vốn rất lớn phục vụ cho dự án đầu tư này. Theo chuyên gia kinh tế Trần Đình Thiên, cần có thêm các nguồn lực kinh tế tư nhân, nước ngoài tham gia đầu tư vào BSR, đồng thời tạo ra các động lực, sức ép để tiếp tục thay đổi quản trị doanh nghiệp theo cơ chế vận hành thị trường và gia tăng hiệu quả hoạt động.
Bình Minh