12/06/2020
Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm không khí (ÔNKK) đô thị đáng báo động. Hai thành phố (TP) lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh hiện đang nằm trong danh sách 15 TP ô nhiễm nhất Đông Nam Á, trong đó chất gây ÔNKK đáng lo ngại nhất là bụi mịn PM2.5. Bụi mịn đặc biệt có hại cho sức khỏe con người, vì chúng có khả năng xâm nhập sâu vào phổi và hệ tim mạch, gây nhiều bệnh như đột quỵ, tim mạch, ung thư phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính và nhiễm trùng đường hô hấp. Theo chỉ số AQ I về chất lượng tuổi thọ bị ảnh hưởng bởi ÔNKK năm 2016, việc chất lượng không khí dưới tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới (10 µg/m3) làm giảm 1 năm tuổi thọ của người dân. Ngân hàng Thế giới cũng tính toán rằng, ÔNKK khiến quốc gia thiệt hại 5% GDP mỗi năm.
Chất lượng không khí tại một số đô thị suy giảm
Một trong những nguyên nhân chính gây ÔNKK là do hoạt động giao thông vận tải (GTVT). Việt Nam hiện có 3,6 triệu ô tô và 58 triệu xe máy, chủ yếu tập trung ở các TP lớn. Trong đó có nhiều phương tiện cũ, công nghệ kiểm soát khí thải kém. Các phương tiện trên đường trong giờ cao điểm gây tắc nghẽn giao thông hàng ngày, đồng thời thải ra lượng lớn chất gây ÔNKK. Vấn đề GTVT của Việt Nam ngày càng trở nên trầm trọng do quy hoạch đô thị không phù hợp. Nhà cao tầng mọc lên như nấm giữa trung tâm TP, mỗi tòa có đến hàng nghìn người sinh sống, tạo áp lực lớn đối với cơ sở hạ tầng đường bộ vốn đã quá tải. Trong khi đó, nhiều TP lớn của Việt Nam rất ít không gian xanh và khoảng không gian mở.
Ngoài ra, còn có một nguyên nhân khác gây ÔNKK do bụi từ công trình xây dựng thương mại và dân cư. Trong nội đô TP vẫn tồn tại các khu công nghiệp cũ. Nhiều cơ sở gây ÔNKK như điện than, xi măng, thép… tồn tại trong TP cũng làm chất lượng không khí trở nên tồi tệ hơn. Bên cạnh đó, người dân vẫn sử dụng hàng nghìn bếp nấu nguyên liệu sinh khối rắn (như củi, than tổ ong). Cùng với việc đốt rơm rạ sau thu hoạch ở khu vực ngoại thành, tất cả đã góp phần đáng kể gây ÔNKK ô ở Hà Nội, đặc biệt vào mùa khô từ tháng 10 đến tháng 2 hàng năm.
Các cơ quan chức năng đã có những giải pháp ngắn hạn, bao gồm quy định chặt chẽ tiêu chuẩn về khí thải xe mới, nỗ lực kiểm soát giao thông, thực thi các biện pháp quản lý bụi do công trường xây dựng và xe vận chuyển, tăng cường giám sát khí thải công nghiệp và cấm sử dụng bếp than tổ ong trong TP… Những biện pháp này có thể giúp giải quyết một phần tình trạng ÔNKK. Trong những ngày giãn cách xã hội do COVID-19, lưu lượng giao thông và các hoạt động công nghiệp giảm đã cải thiện đáng kể chất lượng không khí tại các TP lớn ở Việt Nam. Tuy nhiên, ÔNKK đã nhanh chóng quay trở lại khi hết giãn cách xã hội. Vì vậy, các giải pháp có tính dài hạn, hệ thống để giảm thiểu OONKK là hết sức cần thiết.
Năm nhóm giải pháp nhằm cải thiện chất lượng không khí
Thứ nhất, cải thiện và thực hiện nghiêm quy hoạch đô thị. Do Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh có nhiều tòa nhà cao tầng với mật độ dày đặc nên các TP này cần dành nhiều không gian xanh và thoáng đãng hơn. Có thể chuyển những khu đông người như cơ quan Chính phủ, trường đại học và bệnh viện ra khu vực ngoại thành. Việc di dời các khu công nghiệp, nhà máy cũ như Nhà máy bóng đèn phích nước Rạng Đông cũng sẽ giảm nguy cơ xảy ra sự cố ÔNKK. Ngoài ra,TP cần hoàn thiện hệ thống giao thông công cộng (xe bus, tàu điện trên không), sau đó thiết lập thêm các hệ thống mới. Việc đưa ra những quy định về xây dựng công trình xanh và giá bán điện có thể thúc đẩy phát triển những tòa nhà sử dụng năng lượng tiết kiệm, điện mặt trời.
Thứ hai, áp dụng các chính sách khuyến khích phương tiện xanh như khuyến khích giảm dần phương tiện cũ gây ô nhiễm bằng cách trợ cấp một phần cho việc đổi xe cũ lấy xe mới. Kinh phí hỗ trợ có thể thu từ việc áp thuế cao hơn khi mua phương tiện giao thông mới. Cách làm trên giải quyết được mối quan ngại về tác động đến nhóm người dân có thu nhập thấp, vì họ thường là chủ sở hữu phương tiện cũ. Chính phủ cũng có thể ban hành chính sách thúc đẩy phát triển xe điện, ví dụ chỉ cho phép xe điện được chạy ở khu vực trung tâm, hoặc giảm thuế thu nhập cho các nhà sản xuất xe điện nội địa khiến chúng có giá cả hợp lý hơn.
Thứ ba, định giá ô nhiễm phù hợp với nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Cơ quan quản lý có thể sửa đổi quy định về thuế BVMT đối với nhiên liệu gây ô nhiễm như dầu diesel và than. Việc định giá các bon, thông qua thuế các bon và thị trường phát thải, sẽ làm giảm sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm có nguồn gốc các bon, đồng thời thúc đẩy nền kinh tế các bon thấp. Điều này sẽ hạn chế ÔNKK và giảm thiểu biến đổi khí hậu - một mối đe dọa khác với an ninh kinh tế và xã hội của Việt Nam.
Thứ tư, chuyển đổi với lộ trình thích hợp sang hệ thống điện tái tạo. Việc ban hành các chính sách khuyến khích phát triển điện gió và điện mặt trời, bao gồm quy định giá bán điện sẽ giúp Việt Nam duy trì vị thế dẫn đầu về năng lượng tái tạo ở Đông Nam Á. Việt Nam có thể đặt ra các mục tiêu tham vọng hơn cho năng lượng tái tạo nhờ tiềm năng cao về điện mặt trời, điện gió và thủy điện tích năng.
Thứ năm, việc cải cách trợ cấp nhiên liệu hóa thạch có thể giúp tiết kiệm khoảng 612 triệu USD/năm, tương đương 0,3% GDP (theo tính toán của Cơ quan Năng lượng quốc tế IEA). Khoản tiền này có thể dùng cho các hoạt động phúc lợi như y tế, giáo dục và BVMT.
Đây là thời điểm thích hợp để ưu tiên các biện pháp trên thông qua việc sửa đổi Luật BVMT dự kiến sẽ được Quốc hội phê chuẩn vào cuối năm 2020. Nếu thiết lập quy định một cách cẩn trọng và kỹ càng, Việt Nam có khả năng xoay chuyển vấn đề ÔNKK như hiện nay.
TS. Đỗ Nam Thắng
Đại học Quốc gia Ôxtrâylia
(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 5/2020)