07/02/2017
Ông Young Ok Park - Giám đốc |
Trong những năm qua, bên cạnh các thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, Hàn Quốc đã đạt được nhiều thành quả trong lĩnh vực BVMT và là một quốc gia có trách nhiệm cao trong hợp tác quốc tế, nhằm giải quyết những vấn đề môi trường toàn cầu. Đặc biệt, công tác quản lý, xử lý khí thải được Chính phủ Hàn Quốc quan tâm hàng đầu. Tạp chí Môi trường đã có cuộc trao đổi với ông Young Ok Park - Giám đốc Viện Nghiên cứu Năng lượng (NCNL) về công nghệ xử lý khí thải công nghiệp tại Hàn Quốc, từ đó đưa ra những giải pháp hữu ích cho Việt Nam.
Ông có thể cho biết đôi nét về công tác quản lý khí thải công nghiệp tại Hàn Quốc?
Ông Young Ok Park: Để quản lý khí thải công nghiệp của các khu công nghiệp (KCN), Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra kế hoạch 5 bước, bao gồm: Giới thiệu về công nghệ kiểm soát khí thải, quy trình cấp phép lắp đặt và hoạt động phải được thực hiện nghiêm chỉnh; Kiểm soát chặt chẽ môi trường và thông báo về các quy định mới để các doanh nghiệp có thời gian chuẩn bị, cải tiến công nghệ; Áp dụng quy định đặc biệt đối với các khu vực bị ô nhiễm nặng hoặc khu vực cần quan tâm; Các thiết bị kiểm soát khí thải được kiểm tra thường xuyên và theo dõi liên tục trong quá trình vận hành; Các nhà quản lý phải xử lý chặt chẽ khí thải dư thừa bằng cách áp dụng các mức xử phạt phù hợp.
Ngoài ra, Hàn Quốc cũng lắp đặt hệ thống giám sát từ xa (TMS) tại các KCN, có trang bị cảm biến để phát hiện khí độc hại. Dữ liệu do hệ thống thu thập được sử dụng làm cơ sở xây dựng biện pháp mới và quản lý khí thải trên toàn quốc. Đặc biệt, Chính phủ Hàn Quốc đã đưa các quy định kiểm soát khí thải vào Luật Bảo tồn Khí sạch.
Ngoài ra, để kiểm soát hiệu quả khí thải vật chất dạng hạt, các KCN phải thực hiện nghiêm túc những bước cơ bản sau: Đánh giá thiết bị phù hợp và kiểm tra các yêu cầu chi tiết về quy trình; Các tiêu chuẩn về môi trường; Chỉ dẫn phát thải của địa phương (địa phương yêu cầu tiêu chuẩn khác so với Trung ương). Mặt khác, trước khi tiến hành lắp đặt thiết bị kiểm soát khí thải, các KCN phải thực hiện đầy đủ theo quy trình cấp phép. Mới đây, các nhà quản lý Hàn Quốc đã áp dụng một số quy định của châu Âu về việc cấp giấy phép thiết bị công nghiệp.
Để xử lý hiệu quả khí thải công nghiệp, Hàn Quốc đã áp dụng công nghệ nào và thực trạng ứng dụng các công nghệ này trong công nghiệp?
Ông Young Ok Park: Hiện tại, hai lĩnh vực chính trong công tác giảm phát thải từ các nguồn công nghiệp là vật chất dạng hạt và khí axít. Đối với công nghệ kiểm soát vật chất dạng hạt, Hàn Quốc đang áp dụng công nghệ tiên tiến nhất để kiểm soát khí thải vật chất dạng hạt từ các nguồn thải công nghiệp. Các thiết bị được áp dụng nhiều nhất tại Hàn Quốc là thiết bị lọc bụi tĩnh điện (ESP); bộ lọc túi; hệ thống lọc ẩm; hệ thống tích hợp… Tại các khu vực nhà máy điện thường sử dụng thiết bị lọc bụi, sau đó là bộ lọc túi. Ở những nơi có yêu cầu nghiêm ngặt và thực hiện theo tiêu chuẩn của địa phương, phải sử dụng cả thiết bị lọc bụi và bộ lọc túi. Trong đó, Viện NCNL đã phát triển một số thiết bị kiểm soát vật chất dạng hạt và được ứng dụng nhiều nhất là bộ lọc Cybag, hệ thống hỗn hợp (ESP + Lọc túi).
Đối với công nghệ kiểm soát khí axít, nhiều KCN tại Hàn Quốc đã cải tiến công nghệ để đáp ứng các tiêu chuẩn mới nhất về môi trường. Theo đó, bộ lọc SDA và hệ thống lọc ẩm được thay thế bằng các cuộn cảm kiểu sấy mới. Các cuộn cảm này được tối ưu hóa bằng cách tái chế vật liệu thu được ở các phễu của thiết bị kiểm soát vật chất dạng hạt.
Hệ thống kiểm soát vật chất dạng hạt kết hợp ESP và bộ lọc túi |
Từ những kinh nghiệm của Hàn Quốc, ông đề xuất những giải pháp gì để Việt Nam quản lý tốt khí thải công nghiệp?
Ông Young Ok Park: Đối với thiết bị kiểm soát vật chất dạng hạt, Việt Nam nên sử dụng các hệ thống này tại KCN phù hợp. Đặc biệt, có thể sử dụng hệ thống lọc Cybag cho các khu vực quy mô nhỏ và vừa, tuy nhiên cần lưu ý về việc giảm áp lực do phễu cyclone khi sử dụng hệ thống này.
Bên cạnh đó, có thể sử dụng hệ thống hỗn hợp cho các KCN quy mô vừa và lớn. Hệ thống này có đặc điểm là giảm tiêu thụ điện so với hệ thống ESP, giảm số lượng túi và tuổi thọ của túi. Ngoài ra, hệ thống này còn có ưu điểm tiết kiệm được không gian lắp đặt. Trong trường hợp sử dụng túi lọc, nên sử dụng loại túi lọc gấp nếp có bao phủ vật liệu để lọc bề mặt tại các điều kiện hoạt động ứng dụng khác nhau (bao gồm nhiệt độ, tính chất khí thải, độ dính…).
Với thiết bị kiểm soát khí axít, Việt Nam cần sử dụng công nghệ lọc sấy để ứng dụng cho các KCN. Công nghệ này đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc kiểm soát khí axít ở các quá trình đốt khác nhau tại các KCN khác nhau. Cuộn cảm loại sấy có thể ứng dụng tại các nhà máy công nghiệp từ quy mô nhỏ tới lớn. Công nghệ của Viện có thể được tối ưu hóa để đáp ứng các điều kiện hoạt động, theo tiêu chuẩn của địa phương và Chính phủ Việt Nam.
Trong thời gian tới, Hàn Quốc và Việt Nam sẽ hợp tác như thế nào để quản lý hiệu quả khí thải công nghiệp tại Việt Nam?
Ông Young Ok Park: Để Việt Nam và Hàn Quốc hợp tác sâu rộng trong mọi lĩnh vực nói chung và quản lý khí thải nói riêng, năm 2017, Chính phủ Hàn Quốc sẽ thông báo dự án mới về Hợp tác Nghiên cứu và Phát triển Hàn - Việt; Ký kết thỏa thuận giữa Viện NCNL Hàn Quốc và Viện Khoa học Môi trường (Tổng cục Môi trường) về quản lý khí thải công nghiệp. Theo đó, tháng 4/2017, hai Viện sẽ xây dựng đề xuất về dự án chung và trình Chính phủ Hàn Quốc. Bên cạnh đó, Viện NCNL Hàn Quốc và Viện Khoa học Môi trường sẽ tổ chức các cuộc họp, hội thảo để nâng cao hiểu biết và thu hút sự quan tâm của ngành công nghiệp Việt Nam nhằm giới thiệu các công nghệ mới về kiểm soát khí thải.
Bằng cách thiết lập các quy tắc mới và áp dụng tiêu chuẩn cho ngành công nghiệp Việt Nam, chúng tôi hi vọng giới thiệu rộng rãi công nghệ mới và chia sẻ kinh nghiệm với các đối tác của Việt Nam.
Xin cảm ơn ông!
Vũ Nhung (Thực hiện)
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 1/2017