07/11/2018
Bãi chôn lấp rác (CLR) Đông Thạnh, huyện Hóc Môn, TP. Hồ Chí Minh từng là bãi rác gây ô nhiễm môi trường (ÔNMT) nghiêm trọng, nhưng giờ đây, sau nhiều năm cải tạo, bãi rác đã phủ một màu xanh ngút ngàn, trở thành một khuôn viên xanh, với vườn cây ăn trái công nghệ cao mang lại giá trị kinh tế.
Trước năm 2002, bãi CLR Đông Thạnh có công suất chôn lấp hơn 10 triệu tấn rác/năm được Công ty xử lý chất thải TP. Hồ Chí Minh quản lý và vận hành. Do tình trạng ô nhiễm kéo dài và ngày càng nghiêm trọng, cuối năm 2002, UBND TP. Hồ Chí Minh quyết định đóng cửa bãi CLR Đông Thạnh. Đầu năm 2003, UBND TP giao cho Công ty TNHH MTV Môi trường Đô thị TP. Hồ Chí Minh quản lý và thực hiện các giải pháp khắc phục ô nhiễm môi trường. Triển khai quá trình khắc phục, Công ty đã áp dụng mô hình nông nghiệp công nghệ cao của Israel, với mục tiêu “xanh hóa” bãi rác thành khu vực sinh thái điển hình của TP. Hồ Chí Minh. Để tạo thành khuôn viên sinh thái, công tác cải tạo đất tại bãi rác được Công ty thực hiện, sau đó tiến hành trồng cây, hình thành nên các vườn cây ăn quả, hoa, cây cảnh... Vì đây không phải là đất tự nhiên (bãi rác được đổ đất sét dày 4 m) nên việc trồng cây gặp nhiều khó khăn, ban đầu phải trồng nhiều loại cây khác nhau, sau đó chọn lọc dần các loại cây thích nghi với môi trường đất.
Nhà màng trồng dưa lưới và dưa lê giống Nhật Bản cho thu hoạch, đạt giá trị kinh tế cao
Sau 5 năm cải tạo, bãi CLR Đông Thạnh đã phủ một màu xanh với các bãi cỏ, dừa cảnh, cây cá vàng cùng nhiều loại cây lấy lá. Phân bố khắp khu vực là vườn ổi sạch, giống Đồng Nai, Tiền Giang với hơn 1.000 gốc, có năng suất 150 kg/ngày. Ổi được trồng trên các luống đất, thực hiện bao trái đảm bảo chất lượng và chỉ tiêu an toàn vệ sinh thực phẩm; vườn mai 2.500 cây, giống Thủ Đức, được trồng trong chậu có trấu, mùn cưa trộn với phân bón, cung cấp cho các đơn vị của Công ty, bán hoặc cho thuê trong dịp lễ, tết hằng năm; vườn lan, hoa kiểng, với 2.000 gốc đang khoe sắc rực rỡ thu hút nhiều khách tham quan. Đặc biệt, ấn tượng là 6 nhà màng trồng dưa lưới và dưa lê giống Nhật Bản có diện tích 12.000 m2. Trong mỗi nhà màng đều có quạt đối lưu, điều hòa nhiệt độ. Các nhà màng trồng dưa theo công nghệ tưới nhỏ giọt Israel. Theo đó, việc tưới nước và bón phân đều thực hiện tự động theo quy trình đã cài đặt sẵn, chỉ cần nhân công cắt tỉa lá, quả để mỗi cây một quả và treo theo dây lên cao cho quả phát triển đều về kích thước. Nhà màng giúp cho cây trồng tránh được mưa, gió, các loại côn trùng và bức xạ ánh sáng. Mỗi vụ dưa lưới trồng trong 60 - 75 ngày, trọng lượng mỗi quả 1,6 - 1,8 kg. Dưa trồng được kiểm tra an toàn chất lượng theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp, siêu thị nên có đầu ra và giá cả ổn định. Các vườn cây trong khu vực đã góp phần cải tạo môi trường, cảnh quan nơi đây và mang lại nguồn lợi kinh tế, với nguồn thu mỗi năm khoảng 300 triệu đồng.
Bên cạnh việc trồng cây phủ xanh toàn khu vực, Công ty TNHH MTV Môi trường đô thị TP. Hồ Chí Minh còn xây dựng trên nền bãi rác cũ Nhà máy xử lý chất thải y tế, công nghiệp nguy hại, với tổng vốn đầu tư 95,2 tỷ đồng. Đây là Dự án ODA giữa Chính phủ Việt Nam và Vương Quốc Bỉ hợp tác đầu tư và giao cho Công ty TNHH MTV Môi trường đô thị TP. Hồ Chí Minh vận hành.
Để giám sát công tác khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường ở bãi CLR Đông Thạnh, Công ty đã phối hợp với UBND huyện Hóc Môn và xã Đông Thạnh thành lập tổ giám sát nhân dân. Tổ giám sát có quyền và nhiệm vụ giám sát hoạt động xử lý rác thải y tế và rác thải công nghiệp nguy hại của nhà máy nằm trong khuôn viên công trường, vấn đề xử lý nước thải, mùi hôi của bãi rác cũ cũng như việc trồng cây phủ xanh. Nếu có vấn đề phát sinh về môi trường, Tổ giám sát nhân dân sẽ báo cáo với xã, huyện và Công ty để xử lý kịp thời.
Có thể nói, việc “xanh hóa” bãi rác ở TP. Hồ Chí Minh đã mang lại hiệu quả thiết thực, giúp xử lý triệt để rác thải, góp phần xây dựng nếp sống văn hóa ở khu dân cư, vừa nâng cao nhận thức BVMT cho người dân và tạo cảnh quan môi trường Xanh - Sạch - Đẹp.
Lê Xuân Thái
Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải
(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 10/2018)