09/03/2022
“BVMT là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta” (1). Trong những năm qua, BVMT, tăng cường quản lý tài nguyên, chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) luôn là vấn đề Đảng và Nhà nước ta quan tâm, được xác định là một trong 3 trụ cột trong tiến trình phát triển, thể hiện qua các Văn kiện Đại hội của Đảng, nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Đồng thời, Nhà nước đã ba lần ban hành Luật BVMT vào năm 2005, 2014 và 2020 cùng với một số Nghị định về xử phạt vi phạm trong lĩnh vực BVMT, quản lý tổng hợp tài nguyên và BVMT biển, hải đảo... Điều này cho thấy, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng vấn đề môi trường và nhận thức rất rõ tầm quan trọng của việc BVMT trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Quan điểm, chủ trương của Đảng về BVMT
Các nhiệm kỳ đại hội của Đảng ta thường xuyên tổng kết, bổ sung, hoàn thiện các quan điểm nhất quán, xuyên suốt, phù hợp với từng bối cảnh phát triển đất nước và thời đại. Từ công cuộc đổi mới đất nước đến nay, quan điểm, chủ trương của Đảng về BVMT có sự chuyển biến, từ tăng trưởng kinh tế phải hướng tới một nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững đến việc đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh, bền vững.
Ngày 25/6/1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 36/1998/CT-TW về Tăng cường công tác BVMT trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là lần đầu tiên Đảng ban hành một Chỉ thị về BVMT, nêu bật những quan điểm cơ bản có tính xuyên suốt về sau: BVMT là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; BVMT là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Coi phòng ngừa và ngăn chặn ô nhiễm là nguyên tắc chủ đạo kết hợp với xử lý ô nhiễm, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên; Kết hợp phát huy nội lực với tăng cường hợp tác quốc tế trong BVMT và phát triển bền vững. Sau 6 năm thực hiện Chỉ thị số 36/1998/CT-TW, công tác BVMT đã đạt được những kết quả nhất định trong việc kiểm soát, phòng ngừa ô nhiễm môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học. Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp ở một số khu vực. Trước thực trạng đó, Bộ Chính trị (khóa IX) đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nêu rõ 5 quan điểm về BVMT là: một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân; một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững; quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi gia đình và của mỗi người, biểu hiện của nếp sống văn hóa, đạo đức, tiêu chí quan trọng của xã hội văn minh và là sự nối tiếp truyền thống yêu thiên nhiên, sống hài hòa với tự nhiên của cha ông ta; BVMT phải theo phương châm lấy phòng ngừa và hạn chế tác động xấu đối với môi trường là chính, kết hợp với xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên. Đây là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa ngành và liên vùng rất cao, vì vậy cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp uỷ đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Đến năm 2011, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng một lần nữa nhấn mạnh, BVMT là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; đầu tư cho BVMT là đầu tư cho sự phát triển bền vững; tăng cường BVMT, chủ động phòng tránh thiên tai, ứng phó có hiệu quả với BĐKH.
Bên cạnh đó, nhận thấy ngoài vấn đề BVMT, nước ta còn phải đối mặt với những thách thức đến từ BĐKH, quản lý tài nguyên thiên nhiên - là ba vấn đề có sự gắn bó hữu cơ và tác động qua lại với nhau, ngày 3/6/2013, để lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết đồng thời ba vấn đề cấp bách trên, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW về “Chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT”. Trong đó xác định rõ: Tăng cường BVMT phải theo phương châm ứng xử hài hòa với thiên nhiên, theo quy luật tự nhiên, phòng ngừa là chính; kết hợp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; lấy bảo vệ sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng; đầu tư cho BVMT là đầu tư cho phát triển bền vững.
Đại hội XIII của Đảng với chủ đề “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” đã diễn ra thành công tốt đẹp. Đây là sự kiện chính trị trọng đại của Đảng và dân tộc, được tổ chức vào thời điểm toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; góp phần tô đậm những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới, 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020. Trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần này, ngoài các khía cạnh về kinh tế, văn hóa, y tế, quốc phòng, an ninh, trật tự xã hội, đối ngoại, hội nhập quốc tế… thì môi trường cũng là nội dung được Đại hội XIII đặc biệt quan tâm và có nhiều quan điểm, chủ trương cụ thể, mới. Trong đó nhấn mạnh: “Lấy BVMT sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường” (2). Đặc biệt, trong định hướng thứ 12 “Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn”, do ý nghĩa và tầm quan trọng ngày càng lớn của vấn đề BVMT đối với sự phát triển đất nước, bảo vệ, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân hiện nay và cho các thế hệ mai sau, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đã từng được nêu ra từ các Đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng bổ sung thêm nội dung mới là “BVMT” để trở thành “quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, BVMT” (3). Đây là nét mới của Nghị quyết Đại hội XIII so với Nghị quyết của các nhiệm kỳ trước.
Xác định BVMT là mục tiêu quan trọng
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta khẳng định những thành tựu sau 30 năm tiến hành đổi mới đất nước và thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm, trong đó có hạn chế "Phát triển thiếu bền vững cả về văn hóa, xã hội và môi trường". Với việc đánh giá đúng về tác động của môi trường đối với sự phát triển đất nước, Đại hội XII của Đảng đã giành nhiều thời lượng để bàn về vấn đề môi trường và xác định mục tiêu BVMT là mục tiêu hết sức quan trọng, đặt ngang bằng với những mục tiêu về kinh tế, văn hóa, giáo dục, quốc phòng - an ninh.
Trên cơ sở tổng kết 35 năm đổi mới, 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020, đồng thời căn cứ vào tình hình thực tế, Nghị quyết XIII của Đảng đề ra các chỉ tiêu về môi trường đến năm 2030: Tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42%; Tỷ lệ xử lý và tái sử dụng nước thải ra môi trường lưu vực các sông đạt trên 70%; Giảm 9% lượng phát thải khí nhà kính; 100% các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt quy chuẩn về môi trường; Tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt 3 - 5% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia. Nghị quyết cũng đưa ra các chỉ tiêu chủ yếu trong thời kỳ 5 năm 2021 - 2025 như: Tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư thành thị là 95 - 100% và nông thôn là 93 - 95%; Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 90%; Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường là 92%; Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100%; Giữ tỷ lệ che phủ rừng ổn định 42%. Đồng thời nêu rõ quyết tâm phấn đấu đạt các chỉ tiêu cao nhất, chuẩn bị các phương án để chủ động thích ứng với những biến động của tình hình.
Một số giải pháp trọng yếu
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ X, Nghị quyết của Đảng đã chỉ rõ nguy cơ ô nhiễm môi trường "Môi trường tự nhiên ở nhiều nơi bị ô nhiễm nặng; tình trạng khan hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt tài nguyên, môi trường tự nhiên bị hủy hoại; khí hậu diễn biến ngày càng xấu, kèm theo những thiên tai khủng khiếp; các dịch bệnh lớn, các tội phạm xuyên quốc gia có chiều hướng tăng". Nghị quyết Đại hội cũng nêu rõ một số nhiệm vụ trọng tâm: Bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên; Tăng cường quản lý tài nguyên quốc gia, nhất là các tài nguyên đất, nước, khoáng sản và rừng; Ngăn chặn các hành vi huỷ hoại và gây ô nhiễm môi trường, khắc phục tình trạng xuống cấp môi trường ở các lưu vực sông, đô thị, khu công nghiệp, làng nghề, nơi đông dân cư và có nhiều hoạt động kinh tế. Cùng với đó, từng bước sử dụng công nghệ sạch, năng lượng sạch; Tích cực phục hồi môi trường và các hệ sinh thái bị phá hủy; Tiếp tục phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, bảo vệ đa dạng sinh học; Quan tâm đầu tư cho lĩnh vực môi trường, nhất là các hoạt động thu gom, tái chế và xử lý chất thải; Hoàn chỉnh luật pháp, tăng cường quản lý nhà nước về bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên.
Từ việc chỉ ra hạn chế "Phát triển thiếu bền vững cả về văn hóa, xã hội và môi trường", Đại hội XII của Đảng (1/2016) cũng đưa ra một số giải pháp trọng yếu: Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với BVMT; Thực hiện nghiêm và nâng cao chất lượng đánh giá tác động môi trường, môi trường chiến lược; Kiểm soát an toàn, xử lý dứt điểm ô nhiễm môi trường do hậu quả chiến tranh; Tăng cường giám sát, công khai đầy đủ, kịp thời thông tin và nâng cao chất lượng môi trường không khí, có biện pháp hạn chế ô nhiễm tiếng ồn, xử lý rác thải ở các đô thị, khu vực đông dân cư; Xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; Kiểm soát tốt các tác động đến môi trường của các dự án khai thác tài nguyên, chủ động phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm gây ô nhiễm môi trường (đặc biệt quan tâm đến những dự án lớn, công nghệ phức tạp và có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao). Cùng với đó, tăng cường và thực thi nghiêm chế tài xử phạt vi phạm về môi trường, trong đó, thực hiện nguyên tắc đối tượng gây ô nhiễm môi trường phải trả chi phí để xử lý, khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi môi trường; đối tượng được hưởng lợi từ tài nguyên, môi trường phải có nghĩa vụ đóng góp để đầu tư trở lại cho BVMT.
Tới Đại hội XIII của Đảng, để thực hiện tốt các nhiệm vụ BVMT, Nghị quyết cũng đưa ra một số giải pháp trọng yếu: Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với BVMT; Thực hiện nghiêm và nâng cao chất lượng đánh giá tác động môi trường, môi trường chiến lược; Kiểm soát an toàn, xử lý dứt điểm ô nhiễm môi trường do hậu quả chiến tranh; Tăng cường giám sát, công khai đầy đủ, kịp thời thông tin và nâng cao chất lượng môi trường không khí, có biện pháp hạn chế ô nhiễm tiếng ồn, xử lý rác thải ở các đô thị, khu vực đông dân cư; Xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; Kiểm soát tốt các tác động đến môi trường của các dự án khai thác tài nguyên, chủ động phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm gây ô nhiễm môi trường (đặc biệt quan tâm đến những dự án lớn, công nghệ phức tạp và có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao). Cùng với đó, tăng cường và thực thi nghiêm chế tài xử phạt vi phạm về môi trường, trong đó, thực hiện nguyên tắc đối tượng gây ô nhiễm môi trường phải trả chi phí để xử lý, khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi môi trường; đối tượng được hưởng lợi từ tài nguyên, môi trường phải có nghĩa vụ đóng góp để đầu tư trở lại cho BVMT. Đến năm 2030, cơ bản đạt các mục tiêu phát triển bền vững về tài nguyên, môi trường và ứng phó với BĐKH theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đó là “Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100%; tỷ lệ chất thải nguy hại được tiêu hủy, xử lý đạt 98%, trong đó riêng tỷ lệ chất thải y tế được xử lý đạt 100%; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đã đi vào hoạt động có nhà máy xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 100%; tỷ lệ tái sử dụng, tái chế chất thải rắn sinh hoạt đạt trên 65%” (4)... Những nhiệm vụ, giải pháp này của Đảng thể hiện tầm nhìn xa trông rộng, góc độ tiếp cận mới, phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu của công tác BVMT hiện nay.
Thành công của sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh đường lối xây dựng, phát triển đất nước của Đảng là đúng đắn và phù hợp với quy luật phát triển của nước ta. Chúng ta tin tưởng, khi toàn Đảng, toàn dân cùng chung tay, góp sức, các chủ trương, đường lối về BVMT của Đảng sẽ nhanh chóng đi vào cuộc sống; tình trạng ô nhiễm môi trường sẽ dần được khắc phục, môi trường sống ngày càng được cải thiện, đời sống của người dân sẽ tốt hơn.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, trang 117.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, trang 119.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, trang 276.
5. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI, XII, XIII.
ThS. Nguyễn Đình Việt
Ban Tuyên giáo Trung ương
Nguyễn Thị Trà
Đại học Kinh tế Nghệ An
(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 2/2022)