28/12/2021
Sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đi cùng với sự đổi mới sáng tạo công nghệ đã khiến việc sản xuất các thiết bị điện, điện tử phát triển mạnh mẽ. Cùng với đó là sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế xã hội giúp cho đời sống người dân ngày càng được cải thiện, tầng lớp trung lưu, thượng lưu cũng gia tăng dẫn đến nhu cầu thay đổi các sản phẩm điện, điện tử ngày càng lớn. Điều này dẫn đến tuổi đời ngày càng ngắn của các sản phẩm điện, điện tử, có nghĩa là có nhiều rác thải điện tử được sinh ra hơn trong nền văn hóa “nâng cấp và thải bỏ” ngày nay. Việt Nam cũng không ngoại lệ khi mà lượng rác thải điện tử trong nước ngày càng tăng nhanh tạo ra những áp lực đối với công tác xử lý loại chất thải đặc thù này. Luật BVMT năm 2020 đã đưa ra những quy định về phát triển kinh tế tuần hoàn (KTTH), về trách nhiệm tái chế, xử lý các sản phẩm thải bỏ trong đó có rác thải điện tử. Bài viết sau đây tổng quan thực trạng về rác thải điện tử ở Việt Nam, đánh giá các khó khăn vướng mắc trong công tác quản lý từ đó đưa ra các đề xuất để thúc đẩy phát triển mô hình KTTH trong lĩnh vực rác thải điện tử.
1. Thực trạng rác thải điện tử ở nước ta
Phát sinh rác thải điện tử
Rác thải điện tử được nhận định là đang gia tăng nhanh chóng ở Việt Nam, tuy nhiên, hiện nay chưa có số liệu thống kê chính thức về tổng lượng rác thải điện tử phát sinh. Theo nghiên cứu của Honda et al., năm 2015, ước tính có 115.000 tấn rác thải điện tử phát sinh ở nước ta với tỉ lệ phát thải trên đầu người là 1,34kg [3]. Theo Forti et al., năm 2019 lượng rác thải điện tử phát sinh tăng lên đạt 257.000 tấn với mức phát sinh bình quân đầu người là 2,7 kg [2]. Ngoài rác thải điện tử truyền thống, các tấm quang điện mặt trời (PV) và pin xe điện (EV) thải đang nổi lên là những thách thức lớn đối với Việt Nam khi mà điện năng lượng mặt trời và các phương tiện giao thông chạy điện được khuyến khích sử dụng ở nước ta. Bên cạnh đó, một lượng rác thải điện tử được nhập khẩu dưới dạng phế liệu hoặc dưới các dạng máy móc thiết bị đã qua sử dụng [4], đặc biệt lượng chất thải nhập khẩu tăng mạnh hơn kể từ khi lệnh cấm nhập khẩu chất thải của Trung Quốc có hiệu lực từ năm 2018.
Thu gom, tái sử dụng, tái chế và xử lý rác thải điện tử
Ở Việt Nam, hoạt động thu gom, tái sử dụng, tái chế và xử lý rác thải điện tử có sự tham gia của hai khu vực phi chính thức và chính thức bao gồm nhiều bên liên quan: nhà sản xuất/nhập khẩu, người tiêu dùng, khu vực thu gom tư nhân, các cửa hàng dịch vụ (sửa chữa, tân trang và mua bán đồ điện-điện tử), cơ sở tháo dỡ, cơ sở tái chế hoặc xử lý. Bên cạnh đó, còn có sự xuất hiện của những người thực hiện công việc xuất, nhập khẩu loại hình chất thải này. Khu vực phi chính thức bao gồm những người thu gom đồng nát, các cơ sở ve chai/phế liệu, các cửa hàng dịch vụ, các làng nghề trong khi khu vực chính thức là các cơ sở xử lý chất thải nguy hại (CTNH) được Bộ TN&MT cấp phép hoạt động.
Quá trình thu gom rác thải điện tử tại Việt Nam chủ yếu vẫn dựa trên khu vực phi chính thức. Các sản phẩm thải bỏ thường được bán hoặc đưa cho khu vực thu gom tư nhân (người thu mua đồng nát, đại lý phế liệu, các cửa hàng dịch vụ: sửa chữa và mua bán đồ điện-điện tử). Các đơn vị tư nhân thu gom các sản phẩm thải bỏ từ người sử dụng và các nguồn khác sẽ kiểm tra, phân loại và bán cho các cửa hàng dịch vụ hay các cơ sở tháo dỡ và tái chế nhằm sửa chữa, tân trang hoặc lắp ráp để tái sử dụng hoặc bán lại với chi phí thấp hơn.
Tại Việt Nam, có nhiều khu vực hoạt động trong lĩnh vực này có thể kể đến như chợ Nhật Tảo (TP. Hồ Chí Minh), Hoàng Cầu và Chùa Vua, Chợ Trời (Hà Nội), làng Bùi Dâu (Hưng Yên), Tề Lỗ (Vĩnh Phúc), làng nghề Tràng Minh (Hải Phòng)... Các vật liệu hoặc các thành phần từ chất thải điện tử có thể tái chế được chuyển tới tái chế chủ yếu tại các làng nghề tái chế nhựa (Minh Khai, Hưng Yên); sắt thép (Tề Lỗ, Phù Mỹ - Vĩnh Phúc; Đa Hội, Châu Khê - Bắc Ninh; Chỉ Đạo, Mỹ Hào - Hưng Yên)... Về xử lý, các thành phần không sử dụng/tái chế được của chất thải điện tử được thải ra từ các hộ gia đình, cửa hàng dịch vụ, các cơ sở tháo dỡ, cơ sở tái chế thường được đưa vào dòng chất thải sinh hoạt, thải bỏ bừa bãi tại các điểm tập kết rác tự phát hoặc đốt bỏ để giảm thể tích thải. Một phần khác trong số đó được đưa đến các bãi chôn lấp chất thải sinh hoạt do các công ty môi trường đô thị quản lý.
Đối với khu vực chính thức, một số công ty môi trường đô thị tại các đô thị lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và các đơn vị được cấp phép thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải nguy hại trong đó có chất thải điện tử mới chỉ tập trung vào dòng thải từ công nghiệp điện tử. Năm 2020, có 117 cơ sở xử lý CTNH (bao gồm cả rác thải điện tử) được Bộ TN&MT cấp phép xử lý, với công suất khoảng 1.500 nghìn tấn/năm [1].
Các thành phần của chất thải điện tử không sử dụng tái chế được bị thải bỏ bừa bãi gây nhiều nguy cơ ô nhiễm môi trường
2. Chính sách phát triển KTTH trong lĩnh vực rác thải điện tử
Rác thải điện tử là loại hình chất thải được quản lý theo các quy định pháp luật về CTNH, cũng chịu sự điều chỉnh của các quy định về nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, nhập khẩu máy móc, thiết bị đã qua sử dụng và quy định về thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ. Các quy định này được đề cập rõ tại Điều 99, 100, 101, Chương VIII trong Luật BVMT năm 2020.
Chính sách phát triển KTTH đã được đề cập trong nhiều văn bản định hướng của Đảng, các chiến lược, đề án của Chính phủ như: Chỉ thị 36/CT-TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Nghị quyết số 55/NQ-TW về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030; Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh… [5]
Đặc biệt Luật BVMT năm 2020, tại Chương XI, mục 2, Điều 142 đã đưa ra những quy định riêng về KTTH như: KTTH là mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ nhằm giảm khai thác nguyên liệu, vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải phát sinh và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường; Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có trách nhiệm thiết lập hệ thống quản lý và thực hiện biện pháp để giảm khai thác tài nguyên, giảm chất thải, nâng cao mức độ tái sử dụng và tái chế chất thải ngay từ giai đoạn xây dựng dự án, thiết kế sản phẩm, hàng hóa đến giai đoạn sản xuất, phân phối… Ngoài ra, KTTH còn được lồng ghép, định hướng trong các quy định cụ thể của Luật BVMT năm 2020 như trong các công cụ kinh tế (như thuế/phí BVMT, nhãn sinh thái, công nghiệp môi trường, dịch vụ môi trường, mua sắm xanh, tín dụng xanh…); quy định về quản lý chất thải rắn, nước thải.
Qua các chính sách này cho thấy, KTTH được xem là một trong những nhiệm vụ, giải pháp cần phải thực hiện trong nội dung về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu của giai đoạn tới; khuyến khích phát triển mô hình KTTH để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của quá trình sản xuất; xây dựng lộ trình, cơ chế, chính sách, pháp luật để hình thành, vận hành mô hình KTTH.
3. Đánh giá khó khăn, vướng mắc và đề xuất giải pháp
Khó khăn, vướng mắc
Thực tế hiện nay, việc xử lý rác thải điện tử ở nước ta vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Nguyên nhân là do bị cạnh tranh bởi khối phi chính thức dẫn đến lượng chất thải đầu vào không đảm bảo tính ổn định về khối lượng và chất lượng, điều này khiến các doanh nghiệp không thể mạnh dạn đầu tư các loại hình công nghệ hiện đại, tận thu các kim loại quý trong rác thải điện tử. Các loại rác thải điện tử mà cơ sở xử lý tiếp nhận thường đã bị nhà cung cấp hoặc cơ sở phi chính thức lấy đi các kim loại dễ tháo dỡ và có giá trị, do đó nếu đầu tư dây chuyền hiện đại sẽ gây lãng phí và không đảm bảo doanh thu để duy trì vận hành công nghệ.
Nhìn chung, hiện trạng tái chế và xử lý chất thải điện tử ở Việt Nam còn đang ở mức độ thấp, mới chỉ tái chế được một phần các vật liệu thông thường như sắt, đồng, chì, thiếc, nhựa bằng các công nghệ cũ, thiết bị lạc hậu gây những tác động không nhỏ đến môi trường và sức khoẻ cộng đồng. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chưa thể tái chế được các kim loại quý, vốn có hàm lượng cao trong chất thải điện tử.
Việc phát thải rác thải điện tử đang thiếu kiểm soát, đặc biệt là việc phát thải từ sinh hoạt hằng ngày của các hộ gia đình. Các thiết bị như: pin, vỏ, xác điện thoại, thiết bị điện tử gia dụng… vẫn được để chung với rác thải sinh hoạt. Nhận thức của người dân về tác hại của rác thải điện tử chưa cao khiến việc phân loại rác tại nguồn không được thực hiện, góp phần không nhỏ dẫn đến ô nhiễm môi trường.
Ngoài ra, Việt Nam đang thiếu hụt các số liệu thống kê chính thức trong kiểm kê và dự báo nguồn và lượng phát sinh chất thải điện tử. Một trong những nguyên nhân là chưa xây dựng được hệ thống, quy trình, cơ sở dữ liệu kiểm kê rác thải điện tử và hạn chế về năng lực thu thập dữ liệu thống kê.
Đề xuất giải pháp thúc đẩy mô hình KTTH trong xử lý rác thải điện tử
Một là, Nhà nước cần ban hành khuyến khích đầu tư áp dụng các mô hình KTTH trong lĩnh vực điện tử thông qua chính sách ưu đãi thuế, phí, lãi suất và đất đai cho các dự án, doanh nghiệp đầu tư vào các hoạt động thúc đẩy KTTH như: sản xuất, kinh doanh các sản phẩm thân thiện môi trường, sản phẩm tái chế, tái sử dụng, phát triển công nghiệp môi trường, dịch vụ môi trường. Để thực hiện được chính sách này cần xây dựng bộ tiêu chí nhận diện, đánh giá các mô hình KTTH trong lĩnh vực điện tử để làm căn cứ áp dụng.
Hai là, xây dựng hướng dẫn kỹ thuật về áp dụng KTTH trong sản xuất điện tử; có cơ chế khuyến khích việc nhập khẩu và ứng dụng các công nghệ sạch, công nghệ thân thiện với môi trường vào trong quá trình sản xuất điện tử nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên nhiên vật liệu và giảm phát thải ra môi trường.
Ba là, đẩy mạnh sản xuất, cung ứng, tiêu thụ các sản phẩm điện tử được sản xuất từ các hoạt động sản xuất - kinh doanh điện tử đáp ứng tiêu chí của mô hình KTTH thông qua các chính sách về thông tin, truyền thông và quảng bá sản phẩm; hoàn thiện hệ thống cấp nhãn sinh thái (nhất là tiêu chuẩn, tiêu chí đối với các sản phẩm tái chế, tái sử dụng…); chính sách mua sắm xanh (đặc biệt là mua sắm công xanh); thiết lập hệ thống phân phối các sản phẩm thân thiện môi trường, sản phẩm tái chế, tái sử dụng.
Bốn là, thúc đẩy hình thành cơ chế liên kết trên nền tảng của internet vạn vật (IOT); phát triển các mô hình khu công nghiệp sinh thái, khu đô thị sinh thái (đô thị xanh).
Năm là, thay đổi thói quen tiêu dùng, thực hiện lối sống bền vững thông qua các biện pháp: Tuyên truyền, vận động xây dựng lối sống thân thiện với môi trường, tiêu dùng bền vững, hình thành ý thức BVMT, tiến tới xây dựng xã hội ít chất thải, các-bon thấp, hài hòa, thân thiện với môi trường; tổ chức các kênh thông tin quảng bá sản phẩm, dịch vụ thân thiện với môi trường tới người tiêu dùng; xây dựng chương trình quảng bá sản phẩm thân thiện với môi trường; giáo dục, đào tạo kiến thức và kỹ năng tiêu dùng bền vững cho người tiêu dùng; nâng cao vai trò và hỗ trợ tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi người tiêu trong việc tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và kiến thức tiêu dùng bền vững cho người tiêu dùng; thúc đẩy tiêu dùng trung gian đối với thị trường nguyên liệu thứ cấp; thúc đẩy các mô hình kinh tế chia sẻ…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ, 2021, Báo cáo số 83/BC-CP ngày 22/3/2021 về công tác bảo vệ môi trường năm 2020
2. Forti V., Baldé C.P., Kuehr R. and Bel G. (2020). The Global E-waste Monitor 2020: Quantities, flows and the circular economy potential. United Nations University (UNU)/United Nations Institute for Training and Research (UNITAR) - co-hosted SCYCLE Programme, International Telecommunication Union (ITU) & International Solid Waste Association (ISWA), Bonn/Geneva/Rotterdam
3. Shunichi Honda, Deepali Sinha Khetriwal, Ruediger Kuehr (2017), Regional E-waste monitor East and Southest Asia, United Nation University, Ministry of the Environment, available at: https://www.researchgate.net/publication/312332531
4. Tran, C. and Salhofer, S. (2018), Analysis of recycling structures for e-waste in Vietnam, Journal of Material Cycles and Waste Management (2018) 20:110-126
5. Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường (2020), Cơ sở khoa học, thực tiễn đề xuất khung chính sách, lộ trình áp dụng các mô hình KTTH ở Việt Nam
6. http://baokiemtoannhanuoc.vn/kinh-te---xa-hoi/xay-dung-nganh-cong-nghiep-tai-che-rac-thai-dien-tu-Viet-Nam-can-co-lo-trinh-146606
PGS. TS. Nguyễn Đình Thọ, TS. Nguyễn Trung Thắng, ThS. Dương Thị Phương Anh, ThS. Nguyễn Thế Thông
Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường, Bộ TN&MT
(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 12/2021)