03/01/2023
Trên thế giới, bền vững môi trường ngày càng được chú trọng trong các chính sách phát triển của các nước. Các mục tiêu bền vững chỉ đạt được khi có những chính sách phát triển phù hợp và việc thực hiện hiệu quả các chính sách quản lý môi trường và tài nguyên. Tuy nhiên công tác hoạch định chính sách, đánh giá hiệu quả thực hiện các chính sách này trong phạm vi một quốc gia, hay so sánh trong khu vực, hay hẹp hơn như so sánh giữa các vùng, tỉnh trong một quốc gia, đòi hỏi cách thức tiếp cận khoa học, có căn cứ, là vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách, các cấp quản lý gặp khó khăn. Các phương pháp xây dựng các hệ thống chỉ thị, hay chỉ số tổng hợp đã được nghiên cứu từ lâu trên thế giới nhằm phục vụ các yêu cầu đánh giá như vậy. Các phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động môi trường có thể kể tới như Đánh giá hoạt động môi trường theo phương pháp P-S-R (Áp lực - Hiện trạng - Ứng phó), sau đó được phát triển bổ sung thành D-P-S-I-R (Động lực - Áp lực - Hiện trạng - Tác động - Đáp ứng); Chỉ số bền vững môi trường - ESI; Chỉ số đánh giá hoạt động môi trường - EPI.
Thời gian qua, cùng với chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế, xã hội. Đời sống của nhân dân đã được cải thiện, đất nước đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển và trở thành nước có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, cùng với những tác động bởi sự nóng lên toàn cầu, nước ta cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề bức xúc về ô nhiễm, suy thoái môi trường do quá trình phát triển gây nên. Việc quản lý đối với quỹ đất ven biển trong thời gian qua có nhiều bất cập, hạn chế như: Quy hoạch xây dựng và công tác quản lý đầu tư xây dựng theo quy hoạch chưa được quan tâm đúng mức cho nên chưa đáp ứng yêu cầu quản lý và phát triển; nhiều dự án tập trung ven biển dẫn đến thiếu không gian, cự ly cần thiết để tạo không gian công cộng dành cho cộng đồng; tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái trầm trọng… Bởi vậy, cần nâng cao việc sử dụng đất ven biển một cách hiệu quả, đồng thời thực hiện các mục tiêu về môi trường, thông qua việc xây dựng bộ chỉ tiêu về đánh giá hiệu quả môi trường của việc sử dụng đất ven biển theo hướng phát triển bền vững (PTBV).
Hiện nay tại Việt Nam đang có nhiều Bộ chỉ tiêu liên quan tới đánh giá hiệu quả môi trường, ở cấp quốc gia và cấp ngành, đã có một số chỉ tiêu liên quan tới đánh giá môi trường đất. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có một Bộ chỉ tiêu nào về đánh giá hiệu quả môi trường từ việc sử dụng đất ven biển theo hướng bền vững. Từ thực tế đó, việc xác định nguyên tắc và căn cứ lựa chọn Bộ chỉ tiêu về đánh giá hiệu quả môi trường của việc sử dụng đất ven biển theo hướng PTBV cần đáp ứng được các nguyên tắc khoa học, yêu cầu thực tiễn và quy định pháp lý đặt ra.
1. Khái quát các bộ chỉ tiêu đánh giá về môi trường và PTBV trên thế giới và tại Việt Nam
Bộ chỉ thị của Uỷ ban phát triển bền vững Liên hiệp quốc (LHQ)
Ủy ban PTBV của LHQ (CSD) được ra đời năm 1992 do sự ủng hộ của Hội đồng kinh tế và xã hội thuộc LHQ và là kết quả trực tiếp của Hội nghị LHQ về môi trường và phát triển. Một yếu tố quan trọng trong hoạt động của Uỷ ban này là tập trung vào việc xây dựng và thử nghiệm một bộ gồm 58 Chỉ thị [1] (lúc đầu là 134). Bộ Chỉ thị này đã bao quát các khía cạnh xã hội, môi trường, kinh tế và thể chế của PTBV. Đây là Bộ chỉ thị được nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam lựa chọn để xây dựng Bộ tiêu chí đánh giá PTBV cho quốc gia mình.
Bộ chỉ thị của Nhóm tư vấn về chỉ tiêu PTBV (CGSDI)
CGSDI là nhóm quốc tế gồm 12 chuyên gia, ra đời năm 1996, với sự tài trợ của Quỹ Wallace toàn cầu, nhằm hài hòa những hoạt động quốc tế về lập chỉ thị và chỉ số phát triển bền vững. Họ đã biên soạn ra một bộ 46 Chỉ thị về môi trường, kinh tế - xã hội và thể chế cho hơn 100 quốc gia [2]. Song song với đó, CGSDI đã xây dựng một phần mềm trọn gói cho phép người sử dụng lựa chọn các phương pháp khác nhau để tính toán các điểm tổng thể từ các chỉ thị riêng biệt tới phân tích đồ hoạ các kết quả tổng hợp.
Bộ Chỉ số thịnh vượng của IUCN
Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) đã tài trợ cho hoạt động Ðánh giá sự thịnh vượng. Kết quả nghiên cứu đã được xuất bản trong cuốn Sự thịnh vượng của các dân tộc: Một chỉ số về chất lượng cuộc sống và môi trường của từng quốc gia [3]. Chỉ số thịnh vượng là một tập hợp gồm 88 Chỉ thị, đã được dùng đánh giá cho 180 quốc gia. Các chỉ thị được kết hợp lại thành 2 nhóm là các chỉ thị thịnh vượng nhân văn và phúc lợi sinh thái. Chỉ số về thịnh vượng nhân văn bao gồm một tập hợp các độ đo về sức khỏe và dân số, sự giàu có, kiến thức và văn hóa, cộng đồng và sự bình đẳng. Chỉ số phúc lợi sinh thái gồm một tập hợp các độ đo về đất đai, nguồn nước, không khí, đa dạng sinh học và việc sử dụng nguồn lợi sinh vật. Việt Nam hiện có một số công trình nghiên cứu có sử dụng các nguyên tắc của thước đo này, nhưng kết quả còn rất khiêm tốn và hạn chế để có thể coi là một công cụ đánh giá phát triển bền vững toàn diện.
Bộ Chỉ số hiệu quả môi trường EPI
Năm 2006, nhóm nghiên cứu của Đại học Yale và Đại học Columbia ở Hoa Kỳ đã chuyển sang nghiên cứu Chỉ số đánh giá hoạt động môi trường (EPI), tập trung vào các vấn đề môi trường hẹp hơn mà Chính phủ các nước phải chịu trách nhiệm [4]. EPI theo dõi các xu hướng hiệu quả môi trường dựa trên phân tích những dữ liệu đáng tin cậy nhất từ các chính sách trọng điểm. Ngoài ra, qua các số liệu minh bạch và dễ hình dung, EPI giúp các nhà lãnh đạo nắm rõ những điểm mạnh và điểm yếu của hoạt động môi trường của quốc gia so với các nước khác. Phân tích EPI vì vậy tập trung vào hai mục tiêu: 1) giảm áp lực của môi trường lên sức khỏe con người; tăng cường hệ sinh thái và quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên.
Chỉ số được xây dựng như một chỉ số tổng hợp, dựa trên 16 chỉ số tổng hợp thành phần với quyền số khác nhau. Các chỉ số tổng hợp cùng giá trị quyền số dựa trên các mục tiêu xác định, theo khung cấu trúc Động lực - Áp lực - Thực trạng - Tác động - Hưởng ứng (DPSIR) đưa ra bởi các đánh giá khoa học và tổng quan về lĩnh vực môi trường cũng như ý kiến tư vấn của các chuyên gia trong lĩnh vực khoa học môi trường, cơ quan Chính phủ, doanh nghiệp, các tổ chức phi Chính phủ, các trung tâm nghiên cứu và học thuật về môi trường.
Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia và ngành tại Việt Nam
Hiện nay có nhiều Bộ chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả môi trường và PTBV đang được áp dụng trong nhiều lĩnh vực. Trong đó, về hệ thống chỉ tiêu quốc gia theo Nghị định số 97/2016/NĐ-CP ngày 1/7/2016 của Chính phủ quy định về nội dung chỉ tiêu thống kê thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia. Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia gồm 20 nhóm chỉ tiêu, trong mỗi nhóm chỉ tiêu thống kê nêu trên gồm một số chỉ tiêu thống kê. Nội dung mỗi chỉ tiêu thống kê gồm: Khái niệm, phương pháp tính; phân tổ chủ yếu; kỳ công bố; nguồn số liệu; cơ quan chịu trách nhiệm thu thập, tổng hợp.
Hệ thống chỉ tiêu theo ngành có: Thông tư số 73/2017/TT-BTMMT ngày 29/12/2017 về ban hành Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành TN&MT; Thông tư số 40/2016/TT-BCT về Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành công thương do Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành; Quyết định số 3201/QĐ-BNN-KH năm 2010 về Hệ thống chỉ tiêu thống kê và chế độ báo cáo thống kê ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn; Thông tư số 05/2012/TT-BXD Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành Xây dựng; Thông tư 41/2014/TT-BGTVT Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành Giao thông vận tải…
Nhìn chung, đã có khá nhiều các chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả môi trường theo các lĩnh vực. Tuy nhiên, về Bộ chỉ tiêu đánh giá hiệu quả môi trường từ sử dụng đất ven biển hiện chưa có một bộ chỉ tiêu nào chính thức, mà mới chỉ có các chỉ tiêu hoặc hướng dẫn về đánh giá môi trường từ sử dụng đất nói chung đã được cơ quan quản lý ban hành như: Quyết định số 2782/2019/QĐ-BTNMT ngày 31/10/2019 về ban hành Bộ chỉ số đánh giá kết quả BVMT của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Thông tư số 23/2010/TT-BTMMT ngày 26/10/2010 về ban hành Quy định điều tra khảo sát, đánh giá hệ sinh thái san hô, hệ sinh thái cỏ biển và đất ngập nước vùng ven biển và hải đảo; Thông tư số 14/2012/TT-BTMMT ngày 26/11/2012 về ban hành Quy định kỹ thuật điều tra thoái hóa đất; Thông tư số 28/2014/TT-BTNMT ngày 02 tháng 6 năm 2014 quy định về thống kê, kiểm kê đất đai và lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất; Thông tư số 35/2014/TT-BTMMT ngày 30/06/2014 về ban hành Quy định việc điều tra, đánh giá đất đai; Thông tư số 60/2015/TT-BTMMT ngày 15/12/2015 về ban hành Quy định về kĩ thuật điều tra, đánh giá đất đai; Thông tư số 73/2017/TT-BTMMT ngày 29/12/2017 về ban hành Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành TN&MT.
Các công trình nghiên cứu về đánh giá hiệu quả môi trường trong sử dụng đất thì sử dụng một số tiêu chí khác nhau, đa phần là các tiêu chí liên quan tới tỷ lệ sử dụng thuốc trừ sâu và thuốc bảo vệ thực vật, tỷ lệ tồn dư hóa chất trong đất, suy giảm đa dạng sinh học, suy thoái đất (Đỗ Văn Nhạ & Nguyễn Thị Phong Thu, 2016 [5]; Nguyễn Văn Bình, 2016 [6]; Hoàng Thị Thái Hòa & Lý Thị Duyên, 2018 [7];…). Các nghiên cứu này bên cạnh việc không thống nhất về các tiêu chí đánh giá thì các tiêu chí đưa ra cũng khá ít, và hướng theo phạm vi khu vực nghiên cứu cụ thể. Bởi vậy, cần phải có một bộ chỉ tiêu toàn diện và có tính bao quát hơn trong việc đánh giá hiệu quả môi trường từ sử dụng đất ven biển theo hướng PTBV.
2. Đề xuất Bộ chỉ tiêu đánh giá hiệu quả môi trường từ sử dụng đất ven biển theo hướng PTBV
Quy trình xây dựng Bộ Chỉ tiêu
Từ tình hình thực tiễn như đã phân tích, nhóm tác giả sau khi tham khảo, phân tích về các bộ tiêu chí liên quan hiện có, cùng với việc đối chiếu với các đặc thù của sử dụng đất ven biển và các nguyên tắc sử dụng đất ven biển theo hướng PTBV, đã xây dựng quy trình xác định các chỉ tiêu cụ thể trong Bộ chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả môi trường của việc sử dụng đất ven biển theo hướng PTBV. Sau đây là quy trình xây dựng Bộ chỉ tiêu:
Bước 1: Dựa trên cơ sở khoa học, kinh nghiệm quốc tế, cơ sở pháp lý về các nội dung quản lý nhà nước về sử dụng đất ven biển và hệ thống chỉ tiêu thống kê hiện hành đưa ra danh sách chỉ tiêu mang tính phù hợp nhất đối với các địa phương ven biển.
Bước 2: Tham vấn địa phương về nội dung chỉ tiêu. Đối tượng tham vấn là các cán bộ cơ quan quản lý nhà nước tại các địa phương. Đơn vị tham gia tham vấn gồm: Nhóm cơ quan quản lý nhà nước (Sở, ban, ngành liên quan); Nhóm đơn vị nghiên cứu (Viện nghiên cứu, trường đại học). Sau khi tham vấn địa phương, kết quả đạt được là Bộ chỉ tiêu được rút gọn cho cấp địa phương, có đánh giá sơ bộ về tính khả thi.
Bước 3: Tham vấn chuyên gia về nội dung của các chỉ tiêu được xác định. Đối tượng tham vấn là các chuyên gia có kinh nghiệm trong xây dựng chỉ số và nội dung tham vấn. Kết quả đạt được là danh sách chỉ tiêu, có đánh giá tính phù hợp và khả thi về dữ liệu.
Bước 4: Nhóm nghiên cứu tổng hợp, đánh giá dựa trên kết quả tham vấn, đưa ra bộ chỉ tiêu phù hợp nhất.
Các chỉ tiêu cụ thể
Theo đó, các chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá hiệu quả môi trường của việc sử dụng đất ven biển theo hướng bền vững gồm có các chỉ tiêu sau:
Chỉ tiêu 1: Diện tích đất bị thoái hóa
Đất bị thoái hóa là đất bị thay đổi những đặc tính và tính chất vốn có ban đầu (theo chiều hướng xấu) do sự tác động của điều kiện tự nhiên và con người. Thoái hóa đất có khả năng xảy ra trên tất cả các loại đất: Đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản, đất bằng chưa sử dụng, đất đồi núi chưa sử dụng. Đất bị thoái hóa gồm các loại hình sau: Đất bị khô hạn, hoang mạc hóa; đất bị hoang hóa; sạt lở đất; kết von, đá ong hóa; đất bị chai cứng, chặt bí; ô nhiễm đất; xói mòn đất; đất bị ngập úng; đất bị mặn hóa; đất bị phèn hóa. Tổng hợp phân hạng mức độ thoái hóa đất (đất bị thoái hóa nặng, thoái hóa trung bình, thoái hóa nhẹ) theo quy định kỹ thuật về Điều tra thoái hóa đất của Bộ TN&MT.
Công thức tính:
Tổng diện tích đất bị thoái hóa |
= |
Diện tích đất bị thoái hóa nhẹ |
+ |
Diện tích đất bị thoái hóa trung bình |
+ |
Diện tích đất bị thoái hóa nặng |
Nguồn số liệu:
- Chế độ báo cáo thống kê ngành tài nguyên và môi trường;
- Điều tra, đánh giá thoái hóa đất của các vùng kinh tế - xã hội; các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ven biển.
Chỉ tiêu 2: Diện tích đất bị ô nhiễm
Ô nhiễm đất là sự gia tăng hàm lượng của một số chất, hợp chất so với tiêu chuẩn, quy chuẩn Việt Nam cho phép, làm nhiễm bẩn đất. Phân cấp đánh giá mức độ ô nhiễm: Không ô nhiễm: Chỉ tiêu được đánh giá có giá trị nhỏ hơn 70% giá trị giới hạn cho phép. Cận ô nhiễm: Chỉ tiêu được đánh giá có giá trị từ 70% đến cận 100% giá trị giới hạn cho phép. Ô nhiễm: Chỉ tiêu được đánh giá có giá trị bằng hoặc lớn hơn giá trị giới hạn cho phép. Nội dung, phương pháp điều tra ô nhiễm đất thực hiện theo quy định tại Thông tư số 60/2015/TT-BTNMT ngày 15/12/2015 của Bộ trưởng Bộ TN&MT quy định về kỹ thuật điều tra, đánh giá đất đai.
Nguồn số liệu:
- Chế độ báo cáo thống kê ngành TN&MT.
- Điều tra, đánh giá ô nhiễm môi trường đất vùng; tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương ven biển.
Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ số khu vực đất bị ô nhiễm tồn lưu được xử lý, cải tạo
Khu vực đất bị ô nhiễm tồn lưu là khu vực được phát hiện có một hoặc nhiều chất gây ô nhiễm tồn lưu vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường, ảnh hưởng xấu đến con người, môi trường và hệ sinh thái. Khu vực đất bị ô nhiễm tồn lưu được xác định trong quy định này bao gồm các khu vực đất bị ô nhiễm do hóa chất bảo vệ thực vật, chất độc hóa học do chiến tranh; bãi chôn lấp không hợp vệ sinh đã dừng hoạt động hoặc đóng cửa. Chỉ tiêu này được tính bằng tỷ lệ phần trăm giữa các khu vực đất bị ô nhiễm tồn lưu được xử lý, cải tạo trên tổng số các khu vực đất bị ô nhiễm tồn lưu được phát hiện trên địa bàn.
Công thức tính:
Tỷ lệ số điểm ô nhiễm tồn lưu được xử lý, cải tạo % |
= |
Tổng số điểm ô nhiễm tồn lưu được xử lý, cải tạo (điểm) |
x |
100 |
Tổng số điểm ô nhiễm tồn lưu được phát hiện (điểm) |
Nguồn số liệu:
- Chế độ báo cáo thống kê ngành tài nguyên và môi trường.
- Điều tra, đánh giá ô nhiễm môi trường đất vùng; tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ven biển.
Chỉ tiêu 4: Hàm lượng các chất trong trầm tích đáy tại khu vực cửa sông và ven biển
Môi trường trầm tích là nơi được sử dụng chủ yếu cho hoạt động nuôi trồng thủy sản và cũng là nơi tồn tại của hệ sinh thái san hô, cỏ biển và rừng ngập mặn. Các chất đặc trưng trong trầm tích tại một số cửa sông là những chất có mặt trong môi trường trầm tích dưới đáy vùng cửa sông, ven biển, khi vượt quá ngưỡng cho phép sẽ gây ô nhiễm trầm tích, tác động xấu tới các loài sinh vật và hệ sinh thái trong môi trường trầm tích. Các chất trong môi trường trầm tích thường bao gồm nhóm thông số trong môi trường kim loại nặng, dầu mỡ khoáng và chất hữu cơ khó phân hủy. Phương pháp lấy mẫu để quan trắc chất lượng trầm tích (cho biết hàm lượng một số chất độc hại trong trầm tích) áp dụng theo hướng dẫn của các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng. Phương pháp phân tích xác định các thông số chất lượng trầm tích thực hiện theo hướng dẫn của các tiêu chuẩn quốc gia hoặc phương pháp phân tích tương ứng của các tổ chức quốc tế.
Nguồn số liệu:
- Chế độ báo cáo thống kê ngành TN&MT;
- Dữ liệu quan trắc tại các trạm quan trắc của các Bộ, ngành và địa phương.
Chỉ tiêu 5: Hàm lượng các chất trong môi trường nước biển tại khu vực cửa sông, ven biển và biển xa bờ
Hàm lượng các chất trong nước biển là các thông số kỹ thuật đo được của các chất tồn tại trong môi trường nước biển, nếu vượt quá ngưỡng QCVN 10-MT:2015/BTNMT, các chất này có khả năng gây ô nhiễm môi trường nước biển, tác động xấu tới các loài sinh vật và hệ sinh thái môi trường biển. Phương pháp sử dụng để xác định hàm lượng một số chất trong nước biển là phương pháp lấy mẫu nước tại các vị trí quan trắc, sau đó đưa về phân tích kết quả tại phòng thí nghiệm. Phương pháp lấy mẫu quan trắc chất lượng nước biển được áp dụng theo hướng dẫn của các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng. Phương pháp phân tích xác định các thông số trong nước biển thực hiện theo hướng dẫn của các tiêu chuẩn quốc gia hoặc tiêu chuẩn phân tích tương ứng của các tổ chức quốc tế.
Nguồn số liệu:
- Chế độ báo cáo thống kê ngành TN&MT;
- Dữ liệu quan trắc tại các trạm quan trắc của các Bộ, ngành và địa phương ven biển.
Chỉ tiêu 6: Tỷ lệ diện tích rừng trồng mới
Chỉ tiêu phản ánh phản ánh mật độ diện tích rừng trồng mới tập trung trên diện tích đất quy hoạch cho lâm nghiệp, thể hiện nỗ lực bảo vệ và phát triển rừng trong quy hoạch sử dụng đất theo hướng bền vững. Chỉ tiêu này được tính bằng tỷ lệ diện tích rừng trồng mới tập trung trên diện tích đất quy hoạch cho lâm nghiệp là tỷ lệ phần trăm diện tích rừng được trồng mới tập trung trên tổng diện tích đất được quy hoạch cho lâm nghiệp của địa phương.
Công thức tính:
Tỷ lệ diện tích rừng trồng mới tập trung trên diện tích đất quy hoạch cho lâm nghiệp (%) |
= |
Tổng diện tích rừng trồng mới tập trung (ha) |
x |
100 |
Tổng diện tích đất quy hoạch cho lâm nghiệp (ha) |
Nguồn số liệu:
- Niên giám thống kê các địa phương ven biển.
- Chế độ báo cáo thống kê ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Chỉ tiêu 7: Diện tích đất sản xuất áp dụng mô hình canh tác nông nghiệp bền vững
Hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường gây ra do việc lạm dụng các hóa chất bảo vệ thực vật và phân bón trong canh tác nông nghiệp đang là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến vấn đề ô nhiễm nước mặt, nước ngầm và suy thoái đất. Chỉ tiêu này nhằm phản ánh vấn đề quản lý BVMT trong ngành nông nghiệp, chú trọng vấn đề quản lý sử dụng hóa chất nông nghiệp dựa trên các mô hình canh tác bền vững. Chỉ tiêu cần phản ánh các mô hình sản xuất bền vững trong canh tác, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, mô hình canh tác nông nghiệp bền vững có các tiêu chuẩn và điều kiện xác nhận như IPM, VietGAP…
Công thức tính:
Tỷ lệ diện tích đất sản xuất được áp dụng các mô hình canh tác nông nghiệp bền vững (%) |
= |
Tổng diện tích gieo trồng được áp dụng các mô hình canh tác bền vững (IPM, GAP, …) (ha) |
x |
100 |
Tổng diện tích gieo trồng của địa phương (ha) |
Nguồn số liệu:
- Niên giám thống kê các địa phương ven biển.
- Chế độ báo cáo thống kê ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Chỉ tiêu 8: Diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên
Khu bảo tồn thiên nhiên bao gồm: Vườn quốc gia, Khu dự trữ thiên nhiên, Khu bảo tồn loài - sinh cảnh, Khu bảo vệ cảnh quan. Căn cứ vào mức độ đa dạng sinh học, quy mô diện tích, khu bảo tồn thiên nhiên được phân thành cấp quốc gia và cấp tỉnh để có chính sách quản lý, đầu tư phù hợp. Nội dung chỉ tiêu thực hiện theo quy định tại Nghị định số 97/2016/NĐ-CP ngày 1/7/2016 của Chính phủ quy định nội dung chỉ tiêu thống kê. Tỷ lệ diện tích các Khu bảo tồn thiên nhiên được tính bằng tỷ lệ phần trăm của tổng diện tích các Khu bảo tồn thiên nhiên bao gồm cấp quốc gia và cấp tỉnh đã được công nhận trên tổng diện tích tự nhiên.
Công thức tính:
Tỷ lệ diện tích các Khu bảo tồn thiên nhiên (%)
|
= |
Tổng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên được cấp có thẩm quyền công nhận (ha) |
x |
100 |
Tổng diện tích tự nhiên (ha) |
Nguồn số liệu:
Chế độ báo cáo thống kê ngành TN&MT.
3. Kết luận
Hiện nay, tại Việt Nam đang có nhiều Bộ chỉ tiêu liên quan tới đánh giá hiệu quả môi trường, ở cấp quốc gia và cấp ngành, trong đó đã có một số chỉ tiêu liên quan tới đánh giá môi trường đất. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có một bộ chỉ tiêu nào về đánh giá hiệu quả môi trường từ việc sử dụng đất ven biển theo hướng bền vững.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, nhóm tác giả đã xác định và xây dựng Bộ chỉ tiêu về đánh giá hiệu quả môi trường của việc sử dụng đất ven biển theo hướng bền vững. Bộ chỉ tiêu này bao gồm 8 chỉ tiêu: Chỉ tiêu 1: Diện tích đất bị thoái hóa; Chỉ tiêu 2: Diện tích đất bị ô nhiễm; Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ số khu vực đất bị ô nhiễm tồn lưu được xử lý, cải tạo; Chỉ tiêu 4: Hàm lượng các chất trong trầm tích đáy tại khu vực cửa sông và ven biển; Chỉ tiêu 5: Hàm lượng các chất trong môi trường nước biển tại khu vực cửa sông, ven biển và biển xa bờ; Chỉ tiêu 6: Tỷ lệ diện tích rừng trồng mới; Chỉ tiêu 7: Diện tích đất sản xuất áp dụng mô hình canh tác nông nghiệp bền vững; Chỉ tiêu 8: Diện tích các Khu bảo tồn thiên nhiên.
Đây là các chỉ tiêu đã được lựa chọn và phân tích kỹ lưỡng và được phát triển và chọn lọc từ hệ thống chỉ tiêu quốc gia, hệ thống chỉ tiêu của ngành TN&MT và từ các ngành liên quan, cùng với việc xem xét sự phù hợp với đặc thù sử dụng đất ven biển. Ngoài ra, sự sẵn có và khả năng thu thập số liệu cũng là các tiêu chí được xem xét khi lựa chọn các chỉ tiêu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. UN (2007). Indicator of sustainable development: Guidline and methodologies - Third Edition, 2007.
2. Consultative Group on Sustainable Development Indicators (2006). Dashboard of Sustainability.
3. IUCN (2001). The wellbeing of nations : a country-by-country index of quality of life and the environment.
4. Esty, Daniel C., Marc A. Levy, Tanja Srebotnjak, Alexander de Sherbinin, Christine H. Kim, and Bridget Anderson (2006). Pilot 2006 Environmental Performance Index. New Haven: Yale Center for Environmental Law & Policy.
5. Đỗ Văn Nhạ, Nguyễn Thị Phong Thu (2016). Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Tạp chí KH Nông nghiệp Việt Nam 2016, tập 14, số 12: 1934-1944.
6. Nguyễn Văn Bình. (2016). Đánh giá thực trạng và đề xuất hướng sử dụng đất nông nghiệp bền vững tại thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đại học Huế: Luận án Tiến sĩ.
7. Hoàng Thị Thái Hòa, Lý Thị Duyên (2018). Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp, Tập 2(1) - 2018.
ThS. Trịnh Thị Hải Yến
Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường
(Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 12/2022)