16/12/2020
Việt Nam nói chung và khu vực miền Trung nói riêng chịu ảnh hưởng sâu sắc của biến đổi khí hậu (BĐKH) toàn cầu, nhất là trong những năm gần đây. Các hiện tượng thời tiết cực đoan gây mưa lớn, cùng với các hoạt động nhân sinh như làm đường, xây dựng nhà cửa, cơ sở hạ tầng… dường như đang đẩy nhanh thêm các quá trình tai biến địa chất như trượt lở đất đá, lũ bùn đá, lũ quét, xói lở bờ sông, bờ biển... với quy mô ngày càng lớn, mức độ thiệt hại ngày càng tăng, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) và an sinh cộng đồng. Các tỉnh miền Trung đang trải qua một đợt mưa, lũ kéo dài; các hiện tượng sạt lở xảy ra mạnh, khốc liệt và bất thường.
Công tác điều tra, cảnh báo trượt lở hiện nay
Tai biến trượt lở, lũ bùn đá, lũ quét... đã và đang được Chính phủ quan tâm từ nhiều năm nay. Bộ TN&MT đã và đang triển khai một số đề án Chính phủ về trượt lở do Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản chủ trì và lũ quét do Viện Khoa học Khí tượng, Thủy văn và BĐKH chủ trì. Cụ thể, về Đề án “Điều tra, đánh giá hiện trạng và phân vùng cảnh báo nguy cơ trượt lở các vùng miền núi Việt Nam” tình hình thực hiện như sau:
Đề án được phê duyệt từ năm 2012 để triển khai thực hiện ở các khu vực miền núi của 37 tỉnh chủ yếu ở miền Bắc, miền Trung và Tây Nguyên. Đến nay đã thực hiện điều tra, thành lập bản đồ hiện trạng trượt lở ở 25/37 tỉnh (cho đến Quảng Ngãi), thành lập các bản đồ trung gian và bản đồ phân vùng cảnh báo trượt lở ở 15/37 tỉnh, tất cả đều ở tỷ lệ 1:50.000. Trên các bản đồ này khoanh định các diện tích có hiện trạng và nguy cơ trượt lở theo các cấp độ rất cao, cao, trung bình và thấp; phân loại các vị trí trượt lở theo quy mô rất lớn, lớn, trung bình và nhỏ, và theo các kiểu trượt như trượt xoay, trượt nêm, trượt phẳng, trượt hỗn hợp và trượt dạng dòng... Ngoài ra, Đề án còn tiến hành điều tra hiện trạng, phân vùng cảnh báo trượt lở ở tỷ lệ 1:10.000 cho các xã trọng điểm có nguy cơ trượt lở cao, đến nay đã thực hiện được 64/220 xã. Kết quả điều tra hiện trạng, phân vùng cảnh báo trượt lở đã và đang được chuyển giao cho Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai, Tổng cục Khí tượng Thủy văn và các địa phương. Cũng theo kế hoạch, Đề án sẽ còn triển khai một số hạng mục khác, như lập bản đồ độ nguy hiểm trượt lở, thiết lập thí điểm một số trạm quan trắc, dự báo, cảnh báo sớm trượt lở...
Các bản đồ hiện trạng và phân vùng cảnh báo trượt lở cơ bản có một số tác dụng sau: Trong ngắn hạn, có thể được sử dụng để biết trước được ở cấp huyện, xã những diện tích có nguy cơ trượt lở cao hay những diện tích tương đối an toàn hơn mỗi khi mưa bão lớn, kéo dài, để trên cơ sở đó địa phương có thể thực hiện diễn tập hoặc sơ tán, di dời, thậm chí cứu hộ, cứu nạn khi trượt lở xảy ra. Trong dài hạn, có thể được tích hợp để điều chỉnh các quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH của các địa phương, tránh các hoạt động phát triển ở những khu vực có nguy cơ cao, thay thế, ví dụ bằng các dự án bảo tồn thí dụ như trồng rừng phòng hộ, hoặc nếu bắt buộc phải phát triển ở những khu vực đó thì có phương án phòng tránh, giảm nhẹ hậu quả trước.
Trượt lở đất đá ở các tỉnh miền Trung
Khu vực miền Trung có dải Trường Sơn chắn giữ ở phía Tây, địa hình thấp dần nhưng khá đột ngột từ Tây sang Đông. Điều kiện địa chất, địa hình - địa mạo, cấu trúc - kiến tạo, địa chất thủy văn - địa chất công trình hết sức phức tạp, vỏ phong hóa dày, thảm thực vật chủ yếu là rừng trồng, rừng tái sinh. Theo độ dốc địa hình, số điểm trượt xảy ra nhiều nhất ở các khoảng độ dốc 14 -32o, thường tương ứng với các kiểu sườn bóc mòn - xâm thực, sườn bóc mòn tổng hợp kèm theo vỏ phong hóa dày.
Tỉnh Hà Tĩnh: Điều tra hiện trạng trượt lở tỷ lệ 1:50.000 năm 2017, tại các huyện Hương Sơn, Hương Khê, Vũ Quang, Kỳ Anh, Nghi Xuân trượt lở xảy ra mạnh mẽ, đa dạng, phức tạp, với 235 điểm trượt, trong đó quy mô nhỏ (<200 m3) 70 điểm, trung bình (200 - 1.000 m3) 88 điểm, lớn (1.000 - 20.000 m3) 73 điểm, rất lớn (20.000 - 100.000 m3) 4 điểm; có 4 điểm sụt lún; 19 điểm có biểu hiện lũ quét-lũ ống và 198 vị trí xói lở bờ sông. Trượt lở chủ yếu xảy ra từ vách taluy dương của QL8, đường Hồ Chí Minh và các đường giao thông chính, một số ít xảy ra trên các sườn dốc tự nhiên.
Dựa vào kết quả điều tra đã khoanh được 6 vùng cấp I (diện tích 50,7km2), 4 vùng cấp II (diện tích 588 km2), 8 vùng cấp III (diện tích 1.432km2) và 3 vùng cấp IV (diện tích 963km2).
Khu vực cấp I: nguy cơ trượt lở và các tai biến địa chất khác rất cao, cần di dời dân cư gồm: thôn 1, xã Xuân Lam, huyện Nghi Xuân; các khu vực có xói lở bờ sông có nguy cơ rất cao cần di dời gồm: thôn Hương Giang, xã Lộc Yên; thôn Tân Hội, xã Hương Trạch, huyện Hương Khê; các khu vực bị sụt lún gồm thôn Thuận Trị, xã Hương Vĩnh và xóm 6, xã Hương Lâm.
Khu vực cấp II: nguy cơ trượt lở và các tai biến địa chất khác cao: thuộc khu vực các xã Sơn Hồng, Sơn Tây, Sơn Trà, huyện Hương Sơn; các khu vực xã Phúc Đồng, Hương Thủy, Hương Đô, Phương Điền, Hương Trà, Hương Liên của huyện Hương Khê.
Hình 1: Bản đồ hiện trạng trượt lở tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2017
Tỉnh Quảng Bình: Đã điều tra hiện trạng trượt lở tỷ lệ 1:50.000 năm 2017, xác định 128 điểm trượt. Trong đó, 74 điểm trượt quy mô nhỏ, chiếm 57,8%; 39 điểm trượt quy mô trung bình, chiếm 30,5%; 15 điểm trượt quy mô lớn, chiếm 11,7%.
Các yếu tố liên quan đến trượt lở gồm: nhóm các yếu tố tự nhiên như vỏ phong hóa dày phát triển trên nền đá gốc là các đá trầm tích, trầm tích lục nguyên giàu sét, trầm tích biến chất giàu sét; các đới dập vỡ kiến tạo dọc theo các đứt gãy; thảm thực vật thưa và mưa kéo dài. Nhóm các yếu tố nhân sinh là tác động của con người, như cắt chân sườn dốc tạo vách taluy làm đường và các công trình dân dụng khác.
Trong đó, đã khoanh định 3 diện tích có nguy cơ trượt lở cao, ảnh hưởng trực tiếp đến các công trình xây dựng và đời sống dân sinh, bao gồm: khu vực xã Kim Thủy, huyện Lệ Thủy, diện tích 80km2, đề xuất nghiên cứu chi tiết ở tỷ lệ 1:25.000 và 1:10.000; khu vực dọc QL12A và đường liên thôn xã Dân Hóa, huyện Minh Hóa, diện tích 9,5km2; khu vực dọc đường liên thôn vào bản Si, xã Trọng Hóa, huyện Minh Hóa, diện tích 7,5km2.
Hình 1. Bản đồ hiện trạng trượt lở tỉnh Quảng Bình đến năm 2017
Tỉnh Quảng Trị: Điều tra hiện trạng trượt lở tỷ lệ 1:50.000 năm 2018 đã xác định 241 điểm trượt, trong đó 142 điểm quy mô nhỏ, 68 điểm quy mô trung bình, 27 điểm quy mô lớn, 2 điểm quy mô rất lớn và 2 điểm quy mô đặc biệt lớn (>100.000m3). Ngoài ra còn ghi nhận 2 điểm lũ quét, 1 điểm sập sụt karst ngầm, 69 vị trí xói lở bờ sông, bờ suối, bờ biển, và 6 điểm khai thác mỏ. Kết quả điều tra cho thấy, trượt lở ở Quảng Trị thường xảy ra dọc các tuyến đường giao thông chính, như đường Hồ Chí Minh và khu vực dân cư hai bên hành lang tuyến đường. Ngoài ra, trượt lở còn xảy ra trên các sườn dốc tự nhiên, dọc các đường liên xã, liên thôn... Mật độ trượt lở ở tỉnh Quảng Trị nhìn chung là không cao, tuy nhiên lại tập trung vào một số khu vực cụ thể, như huyện Hướng Hóa (147/241 điểm) và huyện Đakrông (71/241 điểm). Trượt trong vỏ phong hóa chiếm tỷ lệ chủ yếu, kiểu trượt phổ biến là trượt hỗn hợp, trượt xoay và trượt phẳng. Đồng thời, đã khoanh định được 12 vùng có nguy cơ trượt lở từ trung bình đến rất cao, đề xuất 3 vùng có nguy cơ trượt lở đất đá rất cao để điều tra chi tiết ở tỷ lệ 1:25.000 và 1:10.000.
Hình 3: Bản đồ hiện trạng trượt lở tỉnh Quảng Trị đến năm 2018
Tỉnh Thừa Thiên - Huế: Được điều tra hiện trạng trượt lở tủy lệ 1:50.000 năm 2019. Kết quả giải đoán ảnh viễn thám và phân tích mô hình lập thể số đã ghi nhận 151 vị trí trượt lở; kết quả khảo sát thực địa xác định được 205 vị trí trượt lở. Trong đó 65 điểm quy mô nhỏ, 66 điểm quy mô trung bình, 61 điểm quy mô lớn, 9 điểm quy mô rất lớn và 4 điểm quy mô đặc biệt lớn; 1 điểm lũ quét và 9 điểm xói lở bờ sông. Nhìn chung trượt lở ở đây thường xảy ra trên các taluy dương dọc các tuyến đường giao thông chính và khu vực dân cư, đặc biệt tập trung dọc tuyến đường Hồ Chí Minh, quốc lộ 74, quốc lộ 71, quốc lộ 49 và hai bên hành lang của các tuyến đường này. Ngoài ra, trượt lở còn xảy ra trên một số sườn dốc tự nhiên dọc các đường liên xã, liên thôn và đường lâm nghiệp. Mật độ trượt lở toàn tỉnh nhìn chung không cao nhưng lại tập trung ở một số địa bàn cụ thể, như ở huyện A Lưới (122/205 điểm).
Đã khoanh định 3 vùng có nguy cơ trượt lở rất cao ở các huyện A Lưới và huyện Phong Điền và đề xuất điều tra chi tiết ở tỷ lệ 1:25.000 và 1:10.000.
Hình 4. Bản đồ hiện trạng trượt lở tỉnh Thừa Thiên-Huế đến năm 2019
Tỉnh Quảng Nam: Điều tra hiện trạng trượt lở năm 2019, tại các huyện Bắc Trà My, Nam Trà My, Tiên Phước, Phước Sơn được đánh giá có nguy cơ trượt lở rất cao; tiếp đến các huyện Tây Giang, Đông Giang và Nam Giang có nguy cơ cao. Kết quả giải đoán ảnh viễn thám và phân tích mô hình lập thể số đã ghi nhận 723 điểm trượt, trong khi khảo sát thực địa ghi nhận 1.286 điểm. Trong số 1.286 điểm này có 353 điểm quy mô nhỏ, 531 điểm quy mô trung bình, 389 điểm quy mô lớn, 12 điểm quy mô rất lớn và 01 điểm quy mô đặc biệt lớn; 01 điểm lũ quét, 27 điểm xói lở bờ sông, bờ biển, và 21 điểm khai thác mỏ.
Hình 5. Bản đồ hiện trạng trượt lở tỉnh Quảng Nam đến năm 2019
Trượt lở đất đá ở tỉnh Quảng Nam thường xảy ra dọc các tuyến đường giao thông chính và khu vực dân cư kèm theo, như đường Hồ Chí Minh, đường Trường Sơn Đông, Quốc lộ 40B. Ngoài ra, còn xảy ra trên các sườn dốc tự nhiên trồng cây lâm nghiệp, dọc các đường liên xã, liên thôn... Mật độ trượt lở đất đá trên toàn tỉnh Quảng Nam là rất cao, quy mô chủ yếu là trung bình đến rất lớn. Những khu vực này tập trung ở các huyện Bắc Trà My, Nam Trà My, Tiên Phước và Phước Sơn.
Hình 6. Bản đồ hiện trạng trượt lở huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam đến năm 2019
Công tác điều tra trên địa bàn huyện Nam Trà My đã ghi nhận 379 điểm trượt lở, chiếm khoảng 29% tổng số điểm trượt lở toàn tỉnh; cả 10 xã của huyện đều xảy ra trượt lở quy mô từ nhỏ đến rất lớn. Trượt lở xảy ra chủ yếu trên các nhóm đá biến chất giàu sét của hệ tầng Khâm Đức và nhóm đá magma xâm nhập axit-trung tính thuộc phức hệ Sơn Dung. Trượt lở thường tập trung dọc theo các đới đứt gãy, nhất là những vị trí giao cắt của các hệ thống đứt gãy các phương khác nhau, khiến đất đá bị dập vỡ mạnh, tính chất cơ lý của đất đá giảm nhiều. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến xảy ra trượt lở ở huyện này. Nhóm các nguyên nhân tự nhiên chủ yếu gồm: các hệ thống đứt gãy, đới dập vỡ phát triển mạnh mẽ, làm cho đất đá bị dập vỡ, nứt nẻ mạnh; vỏ phong hóa phát triển dày, bở rời hoặc hỗn độn mềm - cứng, khả năng liên kết kém; địa hình sườn dốc trung bình đến cao (> 20º), là nơi quá trình trọng lực sườn xảy ra mạnh và rất mạnh. Nhóm nguyên nhân kích hoạt rõ ràng nhất là do mưa và cắt xẻ để làm đường giao thông, lấy mặt bằng xây dựng, làm mất cân bằng sườn dốc. Kết quả điều tra cho thấy tất cả các điểm trượt đều xảy ra khi có mưa hoặc trước đó có mưa lớn kéo dài; có tới 339/379 điểm trượt xảy ra tại taluy - sườn nhân tạo).
Trong số 70 điểm trượt quy mô lớn đến rất lớn đã xác định hơn 30 điểm tiếp tục có nguy cơ trượt. Đề xuất cắm biển cảnh báo một số tuyến đường, bao gồm: đoạn đường Quốc lộ 40B nối xã Trà Nam với huyện Tu Mơ Rông của tỉnh Kon Tum; đoạn đường Trường Sơn Đông từ thôn 3 xã Trà Vinh đến khu vực giáp ranh với huyện Bắc Trà My; đoạn đường ĐH5 từ thôn 2 xã Trà Vân đến đường Trường Sơn Đông.
Vị trí xảy ra trượt lở ngày 28/10/2020 tại thôn 1 xã Trà Leng, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam có một số đặc điểm sau:
Địa hình khu vực có độ cao tuyệt đối 300-900m, thuộc dạng núi trung bình đến cao, nguồn gốc bóc mòn-xâm thực, độ dốc sườn tự nhiên 25 - 35o. Thảm phủ thực vật là rừng trồng (chủ yếu là keo), mật độ che phủ khoảng 80-85%. Mạng lưới thủy văn đa phần là các khe suối ngắn và dốc, đều đổ vào sông Trà Leng; thung lũng suối ở thượng nguồn hẹp và dốc với tiết diện ngang dạng chữ “V”.
Khu vực trượt lở Thôn 1 có sự phân bố của đứt gãy phương vĩ tuyến dài khoảng 20km, làm cho đất đá ở đây bị cà nát, dập vỡ mạnh mẽ, trở nên rất yếu, đồng thời tạo điều kiện để quá trình phong hóa phát triển sâu, tạo vỏ phong hóa dày.
Đá gốc ở khu vực này là nhóm đá biến chất giàu sét, thuộc phức hệ Khâm Đức (NP- Ɛ1 kđ).
Kết quả khảo sát vỏ phong hóa trên nhóm đá biến chất giàu sét chủ yếu gặp lộ ra các đới từ phong hóa mạnh đến phong hóa trung bình, ít khi lộ ra các đới phong hóa yếu; chiều dày lộ ra quan sát tại thực từ 7 - 8m đến 12 - 15m, thậm chí 15 - 20m. Do giàu khoáng vật sét nên khi bão hòa nước dễ bị chảy nhão. Năm 2019 đã xác định được ở khu vực Thôn 1 hai vị trí trượt lở.
Một số đề xuất, kiến nghị
Đối với đề án Chính phủ về trượt lở hiện đang thực hiện
Sớm gia hạn và cho phép đẩy nhanh hơn nữa tiến độ thực hiện Đề án Chính phủ “Điều tra, đánh giá hiện trạng và phân vùng cảnh báo nguy cơ trượt lở các vùng miền núi Việt Nam” (triển khai từ 2012, đến nay mới thực hiện được khoảng 50% khối lượng công việc, hiện Bộ TN&MT đang trình Chính phủ cho phép gia hạn Đề án).
Cho phép bổ sung thêm một số nội dung: Bổ sung danh mục các xã trọng điểm cần điều tra hiện trạng, phân vùng cảnh báo trượt lở ở tỷ lệ 1:10.000 và cho phép triển khai thực hiện sớm; Điều tra cập nhật và điều chỉnh các bản đồ hiện trạng, phân vùng cảnh báo trượt lở hàng năm (sau mỗi mùa mưa bão) và định kỳ sau mỗi 3-5 năm (vì hiện trạng trượt lở ở các địa phương sau khoảng 3 - 5 năm cơ bản là sẽ thay đổi hoàn toàn); Kiểm tra, rà soát công tác phòng tránh, giảm nhẹ trượt lở ở các địa phương ngay trước mùa mưa bão hàng năm và đưa ra các cảnh báo cập nhật, khẩn cấp cho chính quyền và cộng đồng địa phương.
Nâng cao chất lượng công tác chuyển giao kết quả cho các địa phương, bổ sung thêm thành phần được chuyển giao là các huyện, xã có nguy cơ trượt lở cao. Đảm bảo rằng chính quyền các cấp và cộng đồng địa phương hiểu được vai trò, tác dụng của các bộ bản đồ hiện trạng và phân vùng cảnh báo trượt lở và sử dụng được chúng trong các hoạt động phát triển KT-XH, phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai. Thiết lập cơ chế liên lạc giữa Bộ TN&MT (hoặc đơn vị thực hiện Đề án là Viện Địa chất Khoáng sản) với các địa phương để đảm bảo các kết quả của Đề án được chuyển giao và được sử dụng kịp thời, hiệu quả.
Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng về trượt lở, lũ quét, tốt nhất là đến được các cấp xã, bản, đặc biệt ở các khu vực có nguy cơ trượt lở cao; triển khai cắm biển cảnh báo ở các vị trí có nguy cơ trượt lở cao.
Một số đề xuất mới
Đan dày thêm mạng lưới dự báo khí tượng, thủy văn cấp địa phương (có thể bằng các công nghệ, phương pháp đơn giản hơn, dễ sử dụng hơn, huy động sự tham gia của các doanh nghiệp...).
Cho phép xây dựng và triển khai đề án Chính phủ về “Xây dựng và vận hành mạng lưới quan trắc, dự báo, cảnh báo sớm trượt lở ở các vị trí trọng điểm”, với một số nội dung chính: Hợp tác với các đối tác quốc tế (có thể dưới hình thức hỗ trợ kỹ thuật ODA) như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Na Uy, Hoa Kỳ... để lựa chọn phương pháp, công nghệ phù hợp, lâu dài hướng đến nội địa hóa thiết bị quan trắc, cảnh báo sớm trượt lở; Điều tra, đánh giá độ nguy hiểm trượt lở, trên cơ sở đó lựa chọn được các vị trí có nguy cơ trượt lở rất cao và cao, quy mô rất lớn và lớn, nếu xảy ra trượt lở có khả năng gây thiệt hại lớn về người và cơ sở vật chất; Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, triển khai lắp đặt và vận hành mạng lưới quan trắc, cảnh báo sớm về trượt lở, kịp thời cung cấp thông tin cho chính quyền và cộng đồng địa phương.
PGS.TS. Trần Tân Văn - Viện trưởng
Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, Bộ TN&MT
(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 11/2020)