04/04/2022
Ô nhiễm rác thải nhựa đang là cuộc khủng hoảng toàn cầu. Rác thải nhựa ngày càng tăng do sự tích tụ của nó trong những thập kỷ gần đây và tác động tiêu cực đến môi trường xung quanh và sức khỏe con người. Đứng trước tình trạng báo động này, các quốc gia trên thế giới đang nỗ lực giảm thiểu rác thải nhựa và chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn. Tuy nhiên, sự xuất hiện của đại dịch COVID-19 từ năm 2019 đã và đang tạo ra những mối đe dọa cản trở mục tiêu và kế hoạch giảm phát thải rác thải nhựa toàn cầu. Tính năng tiện lợi và ngăn cản sự tiếp xúc của các giọt bắn chưa virút corona của các thiết bị bảo hộ y tế và các vật dụng sử dụng một lần sản xuất từ nguyên vật liệu nhựa khiến cho lượng chất thải nhựa tăng bùng nổ trong 4 năm gần đây. Giảm phát thải nhựa trong bối cảnh COVID-19 là bài toán cho tất cả các quốc gia trên thế giới.
Khẩu trang và găng tay trôi nổi trong đại dương
Mối đe dọa của đại dịch COVID-19 đối với công tác quản lý rác thải nhựa
Ước tính mỗi năm có khoảng 13 triệu tấn rác thải nhựa đổ vào các đại dương đe dạo đến đa dạng sinh học, kinh tế và tiềm ẩn ảnh hưởng đến sức khỏe con người (The State of Plastíc, 2018). Trong đó, hơn 80% lượng chất thải nhựa phát sinh từ nguồn đất liền, các quốc gia châu Á là những nguồn phát sinh rác thải nhựa và vi nhựa đứng đầu thế giới (Jambeck và cộng sự, 2015). Những nguy cơ ô nhiễm nhựa như tiếng chuông báo động đối với các Chính phủ trên toàn cầu, các tập đoàn kinh doanh và cộng đồng địa phương. Các chính sách về xã hội, công nghệ và thể chế nhằm loại bỏ nhựa sử dụng một lần trên toàn quốc nhằm giảm lượng rác thải nhựa, các sáng kiến của các tổ chức phi lợi nhuận nhằm làm sạch các bãi biển, đại dương, thay đổi hành vi nơi công cộng, giảm tiêu thụ và xả rác nhựa sử dụng một lần đã có những thay đổi tích cực. Hơn nữa, việc sửa đổi Công ước Basel về kiểm soát sự di chuyển xuyên biên giới của chất thải nguy hại và việc đưa chất thải nhựa vào khuôn khổ ràng buộc pháp lý vào năm 2019 đã được hơn 180 quốc gia phê chuẩn đã hứa hẹn cải thiện các quy định về buôn bán chất thải nhựa. Đặc biệt, việc Liên hợp quốc công bố ô nhiễm nhựa là một cuộc khủng hoảng trên toàn thế giới vào năm 2017 đã làm cho một số cơ sở kinh doanh phải điều chỉnh chiến lược doanh nghiệp, chuẩn bị cho quá trình chuyển đổi nhanh chóng sang nền kinh tế tuần hoàn.
Tuy nhiên, sự xuất hiện của đại dịch COVID-19 từ năm 2019 đã khiến cho công tác quản lý chất thải nhựa trên toàn cầu trở nên khó khăn hơn. Để ngăn chặn sự lây nhiễm của virút Corona, các thiết bị bảo hộ cá nhân (PPE) (chứa một tỷ lệ đáng kể nhựa) bắt buộc được sử dụng như một biện pháp bảo vệ đáng tin cậy và hợp lý nhất. Nhu cầu sử dụng PPE một lần của các bác sĩ, nhân viên y tế tăng lên và việc cộng đồng bắt buộc sử dụng khẩu trang nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh đã làm phát sinh chất thải nhựa. Nhận thức về tính ưu việt như hợp vệ sinh của nhựa sử dụng một lần so với các lựa chọn thay thế khác đã chuyển sự lựa chọn của người tiêu dùng sang ủng hộ bao bì nhựa và túi nhựa sử dụng một lần. Hơn nữa, lệnh khóa cửa quốc gia và lệnh kiểm dịch tại nhà đã kích thích sự phụ thuộc ngày càng tăng vào việc giao hàng trực tuyến thực phẩm và các mặt hàng tạp hóa thiết yếu khác, điều này đã gây ra sự gia tăng hợp lý trong việc phát sinh chất thải bao bì nhựa.
Mặc dù, trong bối cảnh giá trị của nhựa được coi trọng, nhưng nó cũng gây ra tình trạng báo động về nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Hơn nữa, thảm họa tồi tệ nhất của sinh vật biển đã diễn ra vào năm 2020 khi đại dương ngập tràn khẩu trang và các rác thải nhựa y tế dùng một lần. Điều này cho thấy, rác thải nhựa đã gây hại nghiêm trọng đến môi trường và hệ sinh thái khi không được kiểm soát và sử dụng hợp lý. Theo Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (WWF, 2020), “nếu chỉ 1% các mặt nạ đã được xử lý không đúng cách và phân tán trong tự nhiên, điều này sẽ dẫn đến có tới 10 triệu khẩu trang mỗi tháng gây ô nhiễm môi trường”. Theo Monella (năm 2020), báo cáo “Liệu ô nhiễm nhựa có trở nên tồi tệ hơn sau đại dịch COVID-19?”, khẩu trang nhập khẩu từ Trung Quốc được làm từ nhiều lớp polyme khác nhau, khiến chúng khó tái chế hơn nhiều. Trong đợt bùng phát COVID-19 ở tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc, chất thải y tế lây nhiễm (có tỷ lệ đáng kể là nhựa) đã tăng 340% từ 40 tấn mỗi ngày lên 240 tấn mỗi ngày (theo Klemeš và cộng sự, năm 2020, báo cáo “Giảm thiểu rác thải nhựa hiện tại và tương lai, dấu chân sinh thái về năng lượng và môi trường liên quan đến COVID-19). Hơn nữa, việc bệnh nhân sử dụng thuốc ngày càng nhiều, trong đó có việc sử dụng thuốc không kê đơn tăng cao đối với các loại thuốc tăng cường miễn dịch có thể làm tăng lượng rác thải bao bì dược phẩm như vỉ thuốc, chai lọ... từ các bệnh viện và hộ gia đình. Tuy nhiên, do tính linh hoạt, độ bền, khả năng chống nước và giá cả phải chăng, nhựa là lựa chọn tối ưu, điều đó cũng thúc đẩy các đổi mới khoa học và công nghệ trong mọi lĩnh vực. Công dụng của chúng được thể hiện rõ trong việc bảo vệ sức khỏe và sự an toàn của các nhân viên y tế tuyến đầu và cộng đồng.
Nhựa là một trong những thành phần quan trọng của thiết bị y tế và đồ bảo hộ đang được sử dụng. Tuy nhiên, nhựa hỗn hợp như của khẩu trang sử dụng một lần với nhiều lớp nhựa kết hợp với các vật liệu khác cũng gây ra mối đe dọa lớn đối với môi trường do khả năng tái chế thấp. Những bất cập và khác biệt trong hệ thống quản lý chất thải hiện tại như thiếu nhân viên, hạn chế về năng lực của các cơ sở xử lý, sự gián đoạn trong các cơ sở tái chế do đại dịch, có thể dẫn đến việc xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường không đúng cách. Hơn nữa, một số loại nhựa thải có khả năng lây nhiễm như khẩu trang, găng tay và tấm che mặt cũng có thể tạo ra những nguy cơ nghiêm trọng hơn do việc lây truyền vi rút nếu không được khử trùng đúng cách. Khi thế giới bắt đầu vượt lên trước đại dịch này, chúng ta nhận ra rằng sự phụ thuộc ngày càng tăng đối với nhựa gây thiệt hại cho môi trường đã dẫn đến một đại dịch rác thải nhựa mới mà chúng ta đang phải đối phó.
Trong bối cảnh dịch bệnh, lệnh cấm túi nhựa sử dụng một lần đã phải tạm thời đình chỉ trong một số các tiểu bang của Mỹ như New York, Massachusetts và New Hampshire có khả năng gây ra những hậu quả lâu dài đối với hành vi của người tiêu dùng. Việc lùi các chính sách hạn chế sử dụng túi ni lông sử dụng một lần như vậy có thể gây ra sự gia tăng phát sinh túi ni lông phế thải và tái tạo văn hóa sử dụng và vứt bỏ ở người tiêu dùng, gây ra sự thay đổi trong lối sống bền vững của họ. Mặc dù chưa có đầy đủ các bằng chứng khoa học về việc giảm nguy cơ lây truyền virút từ những chiếc túi sử dụng một lần, song các chính phủ đã xây dựng niềm tin của người dân về nhựa là hợp vệ sinh. Trong khi đó, các nghiên cứu chỉ ra rằng khả năng tồn tại của virút Corona trên bề mặt nhựa lên đến ba ngày so với giấy là 3 giờ, bìa cứng là 1 ngày, vải là 2 ngày, thực sự mâu thuẫn với quan điểm này.
Hơn nữa, chứng hoang tưởng do virút Corona đã dẫn đến tình trạng dự trữ nhu yếu phẩm và các thiết bị gia dụng khác, dẫn đến nhu cầu không mong muốn đối với các sản phẩm đóng gói có tuổi thọ cao ở một số quốc gia. Trong bối cảnh của đại dịch, mua hàng trực tuyến và thương mại điện tử đã trở thành những giải pháp dự phòng. Bất chấp chi phí hoạt động cao, thuê nhân viên mới và chi phí bổ sung cho các biện pháp an toàn, các dịch vụ thương mại điện tử của Amazon đã ghi nhận mức tăng 26% trong doanh thu cả năm của họ trong quý đầu tiên của năm 2020.
Theo báo cáo của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP, 2018) “Nhựa sử dụng một lần: Lộ trình bền vững đã cho thấy như cầu mua thực phẩm và vật dụng thiết yếu hàng ngày trực tuyến lần lượt tăng là 92,5% và 44,5% ở Hàn Quốc so với năm ngoái do đại dịch COVID-19. Báo cáo cũng cho thấy, sự gia tăng mua sắm trực tuyến tăng 12 - 57% ở các quốc gia như Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc, Ý và Đức trong cùng thời kỳ. Sự thống trị của bao bì nhựa sử dụng một lần trong thương mại điện tử sẽ dẫn đến việc tích tụ chất thải nhựa bao gồm màng mỏng, xốp và nhựa nhiều lớp, có khả năng tái chế thấp.
Những thách thức đối với hệ thống quản lý chất thải nhựa hiện nay
Hiện nay, các kỹ thuật quản lý chất thải nhựa được sử dụng rộng rãi nhất trên toàn cầu là tái chế cơ học, đốt và chôn lấp. Quỹ Ellen McArthur (2017) ước tính tỷ lệ tái chế nhựa phế thải trên toàn cầu là 16%. Trong khi đó, số nhựa thải còn lại hoặc đã được đốt (25%), chôn lấp hợp vệ sinh/không hợp vệ sinh (40%), hoặc bị rò rỉ ra môi trường do quản lý yếu kém (19%). Tuy nhiên, những kỹ thuật này chưa đáp ứng được nhu cầu giải quyết vấn đề rác thải nhựa toàn cầu. Việc gia tăng phát sinh chất thải trong cuộc khủng hoảng COVID-19 đã khiến mọi nỗ lực toàn cầu trở bị đe dọa.
Nhiễm bẩn chéo polyme, sự hiện diện của các chất phụ gia, tạp chất vô cơ, sự phân tách không đều, hoặc không đầy đủ tại nguồn hoặc trong quá trình thu gom và sự phân hủy một phần polyme luôn là những hạn chế chính đối với việc tái chế cơ học nhựa phế thải. Đặc biệt, đối với nhựa sử dụng một lần (đặc biệt là màng và xốp) và nhựa nhiều lớp có tỷ lệ thu gom thấp, chi phí tiền xử lý cao, hạn chế về công nghệ, và cấu trúc tích phân yếu. Hơn nữa, giá dầu giảm mạnh trong thời gian COVID-19 gây ra sự sụt giảm đáng kể giá trị của nhựa nguyên sinh ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của nhựa tái chế trên thị trường. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu nhân viên do lo ngại lây truyền vi rút trong quá trình thu gom và xử lý nhựa phế thải và việc vận chuyển bị hạn chế đã khiến ngành công nghiệp tái chế nhựa bị ảnh hưởng.
Lĩnh vực tái chế tự phát tại các nước đang phát triển đã và đang chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do thiếu tài chính thường xuyên. Nguyên nhân là hiệu quả thu gom thấp và thị trường nhựa tái chế không có sẵn. Sự chuyển dịch thị trường sản xuất, sử dụng và tái chế từ Bắc Mỹ và châu Âu sang các nước châu Á với hệ thống quản lý chất thải và cơ sở hạ tầng yếu kém cũng là một thách thức đối với tỷ lệ tái chế nhựa.
Đốt rác là phương pháp phổ biến ở Bắc Âu để xử lý chất thải rắn sinh hoạt (bao gồm cả chất thải nhựa) vì khả năng thu hồi năng lượng. Một số quốc gia phát triển như Thụy Điển, Đan Mạch và Ba Lan đã áp dụng công nghệ tiên tiến và cải tiến để kiểm soát ô nhiễm không khí trong công nghệ xử lý chất thải “biến chất thải thành năng lượng”. Thụy Điển là một ví dụ điển hình về thu hồi sản lượng năng lượng (23%) từ việc đốt rác thải đô thị và công nghiệp. Tuy nhiên, Thụy Điển có nghĩa vụ tuân theo hệ thống phân loại chất thải và đạt được các mục tiêu cụ thể về tái chế nhựa bao bì là 55% vào năm 2030 do Liên minh châu Âu đặt ra để giảm sự phụ thuộc vào hệ thống biến chất thải thành năng lượng. Vì vậy, mặc dù đốt rác có thể được coi là một giải pháp tức thì giữa các cuộc khủng hoảng COVID-19, nhưng đối với một kịch bản lý tưởng và lâu dài, hệ thống phân cấp chất thải bị chi phối bởi khái niệm giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế luôn được khuyến nghị tuân theo.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã yêu cầu thiêu hủy nhựa PPE và các chất thải lây nhiễm/nguy hại khác, đặc biệt được làm từ nhựa; chỉ thị này đã làm tăng tải trọng đối với các cơ sở đốt rác. Cơ sở hạ tầng đốt rác hiện có không thể đáp ứng trước sự gia tăng mạnh mẽ chất thải nhựa. Lượng chất thải y tế tích lũy ước tính 240 tấn/ngày ở Vũ Hán, Trung Quốc đã vượt quá công suất đốt tối đa của tỉnh (49 tấn/ngày). Hơn nữa, tình trạng phát thải các khí độc hại như dioxin và furan trong quá trình này đối với các hệ thống kém hiệu quả và không kiểm soát ô nhiễm không khí theo quy chuẩn đang diễn ra phổ biến. Chỉ riêng chất thải nhựa được quản lý bằng phương pháp đốt đã đóng góp tương đương 5,9 triệu tấn CO2 phát thải ở Hoa Kỳ và 16 triệu tấn khí nhà kính trên toàn cầu vào năm 2015. Theo Hội đồng năng lượng thế giới năm 2019, phát thải khí nhà kính được dự đoán sẽ tăng lên lần lượt lên 49 triệu tấn và 91 triệu tấn vào năm 2030 và 2050, theo ước tính trước đây về việc sản xuất nhựa và đốt rác. Tuy nhiên, trong bối cảnh COVID-19, WHO đã kêu gọi tăng sản lượng nhựa lên 40% để đáp ứng nhu cầu toàn cầu ngày càng tăng. Đây là lượng phát thải khổng lồ trong những năm tới. Đốt chất thải thúc đẩy phát thải khí nhà kính vào môi trường nhiều hơn dự kiến đối với phương pháp thiêu đốt. Đây chính là nguyên nhân gia tăng sự nóng lên toàn cầu.
Chôn lấp là biện pháp phổ biến trong quản lý chất thải nhựa, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Các khu chôn lấp không hợp vệ sinh tồn tại phổ biến hiện nay. Theo báo cáo của Azoulay và cộng sự năm 2019, “Nhựa và sức khỏe: các thiệt hại tiềm ẩn của một hành tinh nhựa”, đánh giá phát thải CO2 dựa trên nhựa không thể tái chế cho thấy chôn lấp gây ra ít phát thải CO2 hơn (253 g/kg) so với đốt (673–4605 g/kg). Hầu hết các quốc gia đang phát triển và kém phát triển vẫn duy trì việc đổ rác thải không hợp vệ sinh do thiếu kinh phí và kỹ thuật dẫn đến tình trạng thiếu quỹ đất, rửa trôi các hóa chất độc hại, nguy cơ cháy nổ, phát thải ô nhiễm không khí. Hơn nữa, sự gia tăng phát sinh chất thải nhựa, thị trường tái chế bị gián đoạn, hạn chế về năng lực do đốt rác trong cuộc khủng hoảng COVID-19 đang gây ra tình trạng quá tải cho các bãi chôn lấp.
Như vậy, đại dịch COVID-19 đã khiến chất thải nhựa trở thành một đại dịch mới mà cả thế giới phải đối phó. Với sự kém hiệu quả và bất cập của các hệ thống quản lý chất thải hiện tại ở nhiều quốc gia thì mục tiêu giảm phát thải nhựa toàn cầu thực sự là thách thức lớn đối với chính sách, lộ trình và quá trình triển khai.
TS. Nguyễn Thị Quỳnh Hương
Viện Khoa học Môi trường, Tổng cục môi trường
(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 3/2022)
Tài liệu tham khảo: