09/06/2020
Khu vực Tây Nguyên gồm năm tỉnh: Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum và Lâm Đồng, là nơi có số lượng voi hoang dã lớn nhất trên cả nước. Từ bao đời nay, voi là loài vật gắn bó với người dân Tây Nguyên, được coi là một trong những biểu tượng văn hóa của vùng đất này. Trước đây, Tây Nguyên là nơi có nhiều voi sinh sống, tuy nhiên do tác động của con người trong những năm gần đây, quần thể voi Tây Nguyên ngày càng bị suy giảm. Nếu không có những biện pháp bảo tồn quyết liệt và hữu hiệu hơn, thì có lẽ trong thời gian không xa nữa, hình ảnh đàn voi vốn thân thuộc với người Tây Nguyên sẽ chỉ còn trong tiềm thức.
Trong khoảng gần hơn 30 năm trở lại đây, số lượng voi Việt Nam nói chung và voi Tây Nguyên suy giảm nhanh theo từng năm. Những năm 1990, ước tính số voi hoang dã của Việt Nam còn khoảng 1.500 - 2000 cá thể. Tuy nhiên, hiện nay, Việt Nam chỉ còn khoảng 124 - 148 cá thể voi hoang dã, phân bố trên 8 tỉnh bao gồm Sơn La, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Đắk Lắk, Đắk Nông, Đồng Nai và Bình Phước. Trong đó, chỉ có 3 sinh cảnh còn trên 10 cá thể voi là Vườn quốc gia (VQG) Pù Mát và vùng phụ cận (tỉnh Nghệ An) còn 13 - 15 cá thể; VQG Cát Tiên, Khu Bảo tồn thiên nhiên (BTTN) và Văn hóa Đồng Nai, Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Lâm nghiệp La Ngà (tỉnh Đồng Nai) còn 14 cá thể và VQG Yok Đôn (tỉnh Đắk Lắk) còn khoảng 80 - 100 cá thể.
Về voi nuôi (voi thuần dưỡng), theo thống kê của Bộ NN&PTNT năm 2018, cả nước có 91 voi nuôi tại 11 tỉnh, thành phố, trong khi con số này của năm 2000 là 165. Nói riêng tỉnh Đắk Lắk, nơi được coi là “thủ phủ” của voi thuần dưỡng, số voi cũng bị giảm mạnh. Cụ thể, trong thời gian 1979 - 1980 tỉnh Đắk Lắk có 502 con voi thuần dưỡng; năm 1990 có 299 con; năm 1997 còn 169 con và năm 2000 chỉ còn 138 con, giảm 364 con trong vòng 20 năm (từ 1980 - 2000). Đến năm 2018, con số voi nuôi của Đắk Lắk, giảm gần 100 cá thể so với năm 2000, chỉ còn 45.
Những thách thức đối với công tác bảo tồn voi
Voi rừng bị mất sinh cảnh
Theo các chuyên gia, để bảo tồn voi hoang dã, vấn đề sống còn là duy trì sinh cảnh của chúng. Thế nhưng, thời gian qua, những cánh rừng già nguyên sinh, sinh cảnh cố hữu của voi, đã và đang bị khai thác tràn lan, ngày càng suy giảm về diện tích, suy thoái về chất lượng, hoặc bị xâm lấn bởi hoạt động của con người. Theo kết quả kiểm kê rừng của Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT), trong 7 năm (từ năm 2008 - 2014) diện tích rừng tự nhiên tại Tây Nguyên mất hơn 358.700 ha, tương đương mỗi năm mất hơn 51.200 ha rừng. Trong đó, rừng giảm 94.814 ha (chiếm 26,4%) do chuyển đổi trồng cao su, cây công nghiệp và cây ăn quả; giảm 33.706 ha (chiếm 9,39%) do chuyển đổi xây dựng thủy điện, công trình giao thông và công cộng; giảm 88.603 ha (chiếm 24,6%) do phá rừng, lấn chiếm đất rừng làm nương rẫy…
Việc voi bị mất sinh cảnh, nguồn thức ăn, hành lang di chuyển làm nảy sinh những xung đột nghiêm trọng, thậm chí nguy hiểm giữa voi và con người. Với tập tính di chuyển rộng, voi đi qua các vùng trồng trọt, phá hoa màu, phá lán trại gây thiệt hại về kinh tế và ảnh hưởng đến sinh hoạt của người dân. Vì vậy, những năm gần đây, ở Tây Nguyên thường xuất hiện tình trạng voi hoang dã bỏ rừng kéo về phá nương rẫy để kiếm ăn, gây nguy hại đến tài sản và tính mạng của con người. Điển hình như năm 2013, đàn voi rừng khoảng 17 cá thể đã kéo về cách trung tâm huyện Ea Súp 5 km gây rối. Tại xã Ea H’Lê, huyện Ea H’leo, trước năm 2012, voi rừng thường xuyên về phá hoại hoa màu của người dân. Nguyên nhân là do khu vực này đã có hoạt động khai hoang rừng làm nhiễu loạn sinh cảnh khiến voi bỏ đi nơi khác.
Sinh cảnh loài voi ở Tây Nguyên đang bị thu hẹp
Voi nhà bị khai thác quá mức và không còn khả năng sinh sản
Việc khai thác voi đã thuần dưỡng, còn gọi là voi nhà, để phục vụ du lịch hay cung cấp sức lao động cũng là một trong những mối đe dọa nghiêm trọng tới quần thể loài. Khảo sát của tổ chức Asia Animal Foundation tại Khu du lịch Buôn Đôn và Khu du lịch hồ Lak cho thấy, voi ở đây phải làm việc từ 6 - 8 tiếng đồng hồ/ngày, thường phải chở 2 - 3 khách mỗi tour vượt sông Sêrêpôk hoặc đi dạo VQG Yok Đôn. Vào dịp lễ Tết, voi còn phải chở nhiều lượt khách hơn mà không được nghỉ ngơi. Giá mỗi tour cưỡi voi khoảng 400.000 - 600.000 đồng, được chia đều cho đơn vị thuê và chủ voi. Do lợi nhuận trước mắt khá cao nên các chủ voi và đơn vị thuê voi vẫn khai thác sức voi để làm du lịch, trong khi xem nhẹ sức khỏe và sự tồn vong của voi.
Trong khi đó, khả năng nhân đàn khó xảy ra do phần lớn voi nhà đã lớn tuổi (trên 35 tuổi) và không có môi trường cho voi giao phối . Theo Dự án bảo tồn voi Đắk Lắk, chủ voi sẽ được trả tiền khi voi đẻ con. Nhưng gần 30 năm qua, khả năng sinh sản của voi nhà Đắk Lắk có tỷ lệ gần như bằng 0 vì môi trường cho việc gặp gỡ, giao phối của voi bị hạn chế bởi chủ voi thường quản lý voi độc lập, ít thả voi sống cùng nhau. Chính việc quản lý voi theo hộ cá thể và theo cách của các công ty du lịch đã gây trở ngại cho việc sinh sản của đàn voi nhà. Thậm chí, sau nhiều nỗ lực của các bên đã có 3 cá thể voi nhà mang thai, tuy nhiên cả 3 voi con đều tử vong sau khi sinh ra do voi mẹ lớn tuổi và sinh sản lần đầu khiến voi con chết ngạt trong đường sinh dục.
Nhu cầu buôn bán, sử dụng sản phẩm từ voi gia tăng
Nhu cầu của con người về ngà voi, lông đuôi voi làm đồ trang sức đang thúc đẩy nạn săn bắt trái phép voi để lấy ngà và các bộ phận. Các tổ chức bảo tồn lớn trên thế giới coi buôn bán ngà và các sản phẩm từ voi là nguy cơ lớn bậc nhất, đe dọa xóa sổ loài này. Một nghiên cứu xuất bản năm 2016 của Tổ chức Save the Elephants nêu rõ, trong 49 cửa hàng khảo sát tại Buôn Ma Thuột có tới 24 cửa hàng bày bán ngà và các sản phẩm từ voi, với tổng số 1.965 mặt hàng. Khảo sát tại Buôn Đôn của tổ chức này cũng cho thấy, 16/23 cửa hàng đồ gỗ truyền thống có bày bán tổng số 703 sản phẩm lưu niệm bằng ngà, hoặc được làm từ các bộ phận khác của voi, giá bán từ khoảng 200 nghìn đến 8 triệu đồng/sản phẩm.
Đến nay, mặc dù các cơ quan chắc năng đã ra quân truy quét, nhưng tình hình buôn bán sản phẩm từ voi vẫn chưa được cải thiện đáng kể. Việc buôn bán ngà voi và các sản phẩm từ voi trên mạng khá công khai và phổ biến. Khảo sát của Tổ chức bảo tồn động vật hoang dã WildAct cho thấy, trong vòng 6 tháng (từ giữa năm 2015 đến đầu năm 2016) đã có gần 21.000 sản phẩm từ voi, bao gồm ngà và lông đuôi voi đã bị rao bán trên mạng xã hội. Phổ biến nhất là đồ trang sức trạm khắc từ ngà voi, chiếm 69% sản phẩm được quảng cáo trên Facebook, trong đó đuôi voi, hoặc lông đuôi voi được quảng cáo trên tất cả những tài khoản Facebook có rao bán ngà voi.
Cần triển khai kế hoạch hành động khẩn cấp bảo tồn voi
Bảo tồn voi là vấn đề được Việt Nam quan tâm, thể hiện qua các chương trình, đề án, kế hoạch hành động bảo tồn voi từ rất sớm. Tuy nhiên, những nỗ lực này được đánh giá là vẫn chưa đủ để ngăn đà suy giảm của quần thể voi. Từ những năm 90, theo Quyết định số 1204/NN-LN-QĐ ngày 16/7/1996 của Bộ NN&PTNT, Chương trình hành động bảo tồn voi Việt Nam giai đoạn 1996 - 1998 đã được thực hiện. Theo đó, mục tiêu của Chương trình là bảo tồn voi tại các vùng trọng điểm tỉnh Đắk Lắk thông qua các hoạt động như rà soát lại hệ thống rừng đặc dụng, xây dựng mới khu bảo tồn thiên nhiên, tăng cường đầu tư, trợ giúp kỹ thuật để đảm bảo an toàn cho nơi sống của voi; xây dựng, bổ sung những quy định pháp luật nhằm ngăn chặn việc săn bắt, mua bán động vật hoang dã và sản phẩm liên quan; chỉ đạo các địa phương giải quyết cụ thể những vụ xung đột voi với người; tuyên truyền bảo tồn voi trên phương tiện thông tin đại chúng…
Nối tiếp là Kế hoạch hành động khẩn trương bảo tồn voi đến năm 2010 theo Quyết định số 733/QĐ-TTg ngày 16/05/2006 của Thủ tướng Chính phủ. Sau 5 năm triển khai thực hiện, Kế hoạch này cũng thu được một số kết quả, trong đó có việc hoàn thiện Dự án bảo tồn voi tại các tỉnh có số lượng quần thể voi lớn nhất là Đắk Lắk, Đồng Nai và Nghệ An; đồng thời thành lập Trung tâm bảo tồn voi Đắk Lắk nhằm hỗ trợ công tác chăm sóc, hỗ trợ sinh sản cho đàn voi.
Năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 940/QĐ-TTg ngày 29/7/2012 về Phê duyệt Kế hoạch hành động khẩn cấp đến năm 2020 để bảo tồn voi ở Việt Nam. Tháng 5/2013, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tổng thể bảo tồn voi Việt Nam giai đoạn 2013-2020” tại Quyết định số763/QĐ-TTg, với tổng kinh phí là 278 tỷ đồng, từ ngân sách nhà nước và các tổ chức, cá nhân nước ngoài tài trợ. Theo Bộ NN&PTNT, tính đến năm 2018, sau 3 năm thực hiện, Đề án đã đạt được một số kết quả như tình trạng săn bắn, giết hại voi giảm; số lượng cá thể voi có tín hiện tăng; xung đột voi và người cũng được hạn chế.
Ở cấp địa phương, năm 2010, UBND tỉnh Đắk Lắk phê duyệt Dự án Bảo tồn voi tại địa phương giai đoạn 2010 - 2015 với tổng kinh phí 61 tỷ đồng. Dự án được triển khai nhằm quản lý bền vững quần thể voi hoang dã, phát triển đàn voi nhà, bảo tồn bản sắc văn hóa bản địa, tuyên truyền giáo dục về môi trường sinh thái. Đến năm 2013, UBND tỉnh phê duyệt “Dự án khẩn cấp bảo tồn voi tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020” với tổng kinh phí gần 85 tỷ đồng (thay cho Dự án trước đó).
Để bảo vệ và phát triển quần thể voi Tây Nguyên, xin đề xuất một số giải pháp cần được ưu tiên thực hiện:
Xét nghiệm mẫu phân để thống kê chi tiết các khu vực có voi ở Tây Nguyên nhằm xác định chính xác số lượng cá thể, cấu trúc giới tính, cấu trúc tuổi. Đồng thời, cần đánh giá tình trạng sinh cảnh và khả năng bảo tồn tại chỗ của các đàn voi. Áp dụng công nghệ hiện đại như đeo vòng cổ gắn chíp điện tử để giám sát di chuyển của voi.
Nghiên cứu khả năng thiết lập hành lang sinh cảnh liên kết vùng hoạt động của các đàn voi nhỏ, tính tới khả năng di dời các đàn/cá thể ở những địa phương khác trong nước có quá ít cá thể voi để bổ sung cho các đàn voi ở khu vực trọng điểm là VQG Yok Đôn - Ea Súp.
Nghiên cứu tập tính di chuyển theo mùa, vùng hoạt động, chất lượng sinh cảnh (nơi trú ẩn, trữ lượng thức ăn, nguồn nước, nguồn khoáng, mức độ tác động). Voi là loài di cư nên cần soạn thảo và ký kết cơ chế bảo tồn xuyên biên giới giữa Việt Nam và Campuchia để đảm bảo quản lý hiệu quả hành lang di chuyển của chúng.
Đánh giá mức độ và nguyên nhân gây ra xung đột giữa voi và người, để có các biện pháp hạn chế xung đột giữa voi và người. Có thể tính tới biện pháp xây hào, xây dựng hàng rào điện ngăn voi, chuyển đổi sang các giống cây trồng không thu hút voi... để hạn chế xung đột. Đồng thời, thúc đẩy công tác tuyên truyền pháp luật để nâng cao ý thức bảo tồn của người dân.
Bảo tồn sinh cảnh của voi nhằm bảo tồn và phát triển số lượng cá thể voi hoang dã hiện có tại tỉnh Đắk Lắk, đặc biệt cần giữ được nguyên vẹn 173.000 ha diện tích cư trú, di chuyển, kiếm ăn của quần thể voi này.
Ngăn chặn các hành vi săn bắn, giết hại voi trái pháp luật thông qua việc đẩy mạnh thực thi pháp luật, xử lý thích đáng các hành vi săn bắt, buôn bán các sản phẩm và dẫn xuất của voi. Với đàn voi nhà, cần quy hoạch khu chăn thả, chăm sóc sức khỏe, sinh sản tại huyện Lắk (150 ha) và huyện Buôn Đôn (200 ha) - 2 huyện duy nhất còn phân bố voi nhà trong tỉnh.
Tăng cường năng lực cứu hộ, chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ sinh sản phát triển quần thể voi.
Từ năm 2018, VQG Yok Đôn (huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk) được Tổ chức Động vật châu Á hỗ trợ 65.000 USD trong 5 năm để chuyển đổi mô hình du lịch cưỡi voi sang mô hình du lịch thân thiện với voi. Mô hình này là hình thức vào rừng thăm quan, tìm hiểu các hoạt động, sinh hoạt hàng ngày của voi. Du khách được ngắm voi từ xa, theo dõi voi ăn, tắm, ngủ, đi dạo cùng voi trong rừng... Bên cạnh đó, các hoạt động du lịch truyền thống như cưỡi, tiếp xúc trực tiếp với voi sẽ bị cấm, để tránh ảnh hưởng đến voi. |
Nguyễn Thúy Hằng - Đỗ Minh Phượng
Trung tâm con người và thiên nhiên
(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 5/2020)