31/03/2017
Theo Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia giai đoạn 2011 - 2015 do Bộ TN&MT công bố, lượng chất thải rắn phát sinh tại khu vực sản xuất công nghiệp ở Việt Nam xấp xỉ 4,7 triệu tấn/năm. Hiện nay, lượng chất thải công nghiệp chủ yếu được xử lý bằng phương pháp chôn lấp lộ thiên hoặc lò đốt công nghiệp, do các ưu điểm nhanh, gọn, phương pháp xử lý đơn giản, chi phí đầu tư, xử lý thấp… Tuy nhiên, chất thải công nghiệp được chôn lấp sẽ trải qua khâu ủ rác, quá trình phân hủy sẽ xuất hiện mùi hôi, ruồi bọ, nước rỉ rác, phát tán vào không khí, thấm dần vào đất, gây ô nhiễm môi trường.
Đơn vị xử lý chất thải công nghiệp phải đáp ứng tiêu chuẩn cao nhất về an toàn môi trường
Theo thống kê của Bộ Y tế, gần một nửa trong số 26 bệnh truyền nhiễm có nguyên nhân liên quan tới nguồn nước bị ô nhiễm. Các bệnh thường gặp là tiêu chảy do virus Rota, dịch tả, thương hàn, viêm gan, viêm não, giun sán, đau mắt hột, các bệnh do muỗi truyền…
Kết quả nghiên cứu tại Trường Vệ sinh và Y học nhiệt đới London, Anh cũng cho thấy, trẻ sinh ra từ các bà mẹ sống gần bãi chôn lấp rác thải có nguy cơ bị dị tật bẩm sinh. Ngoài ra, các bãi chôn lấp còn có thể làm giảm chức năng hệ miễn dịch, dẫn đến tăng nguy cơ nhiễm trùng, hen suyễn và nhiều hệ lụy khác.
Năm 1996, Chính phủ Anh đã áp dụng tăng thuế cho việc chôn lấp, buộc các doanh nghiệp phải tự tìm nhiều cách xử lý chất thải công nghiệp khác nhau để tiết kiệm chi phí. Sự tác động của thuế và chuyển hướng chính sách đã mang lại hiệu quả khi lượng rác thải công nghiệp chôn lấp giảm từ 100 triệu tấn năm 1997 xuống dưới 30 triệu tấn năm 2013.
Tại Việt Nam, các bãi chôn lấp cần quỹ đất lớn để có thể chứa được lượng rác thải công nghiệp ngày càng tăng. Trong khi đó, nhu cầu sử dụng đất vào các mục đích công cộng, đảm bảo an cư cho người dân ngày càng nhiều. Đã đến lúc, chúng ta cần phải áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại để giải quyết bài toán trong xử lý rác thải.
Uyên Hoàng