20/07/2016
Ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu (BĐKH) cùng với suy thoái tài nguyên là những thách thức lớn của nhân loại trong thế kỷ 21, làm thay đổi các hệ sinh thái tự nhiên, quá trình phát triển, đe dọa nghiêm trọng đối với an ninh môi trường. Để phòng ngừa, ứng phó với vấn đề trên, các quốc gia đã thảo luận, thống nhất đưa ra những quy định chung làm căn cứ để mỗi nước có nghĩa vụ chấp hành, tuân thủ. Căn cứ vào luật pháp quốc tế và điều kiện thực tế về tự nhiên, kinh tế - xã hội, phong tục tập quán riêng… mỗi nước đã xây dựng, ban hành Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành để điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, để các văn bản pháp luật mới ban hành đi vào cuộc sống thì cần phát huy vai trò của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về BVMT.
Trong gần 30 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, đường lối, nghị quyết và các văn bản quy phạm pháp luật về BVMT như Khoản 1 Điều 6, Luật BVMT năm 2014 nêu rõ một trong những hoạt động được khuyến khích là “truyền thông, giáo dục và vận động mọi người tham gia BVMT, giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và đa dạng sinh học” hay “phổ biến, giáo dục pháp luật về BVMT phải được thực hiện thường xuyên và rộng rãi” (Điều 154). Khoản 1 và 2 Điều 155 của Luật quy định cụ thể công tác giáo dục về môi trường, đào tạo nguồn nhân lực: “Chương trình chính khóa của các cấp học phổ thông phải có nội dung giáo dục về môi trường”, “Nhà nước ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực BVMT; khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân tham gia giáo dục về môi trường và đào tạo nguồn nhân lực BVMT”…
Các hoạt động giáo dục ngoại khóa về môi trường luôn được học sinh tích cực hưởng ứng |
Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước xác định, giải pháp quan trọng để BVMT đó là “đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm BVMT”. Mới đây nhất, tại Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3/6/2013 về Chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT được Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI thông qua, đã nhấn mạnh nhóm giải pháp chính để BVMT là: “Tăng cường, đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, hình thành ý thức chủ động ứng phó với BĐKH, sử dụng tiết kiệm tài nguyên và BVMT”.
Trong thời gian qua, hoạt động tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về BVMT đã được các cấp, ngành, địa phương quan tâm và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức của người dân và cộng đồng về BVMT. Các sự kiện lớn về môi trường như Giờ Trái đất, Ngày Trái đất (22/4), Ngày Môi trường thế giới (5/6); Ngày quốc tế Đa dạng sinh học (22/5), Chiến dịch Làm cho thế giới sạch hơn... được phát động ở cả Trung ương và địa phương. Hàng năm, Giải thưởng Môi trường Việt Nam được tổ chức nhằm khuyến khích các tập thể, cá nhân trong và ngoài nước có nhiều thành tích trong sự nghiệp BVMT. Tại Lễ trao tặng Giải thưởng Môi trường Việt Nam năm 2015, 50 tổ chức, cá nhân và cộng đồng có thành tích xuất sắc trong công tác BVMT được lựa chọn và vinh dự đón nhận phần thưởng hay tại Hội nghị Môi trường toàn quốc lần thứ IV, 70 điển hình tiên tiến về BVMT giai đoạn 2011 - 2015 đã được tôn vinh...
Bên cạnh đó, nhiều hình thức tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng cũng được tổ chức thông qua các tư liệu, tranh ảnh, chiến dịch truyền thông đại chúng, phương tiện truyền thông (báo chí, phát thanh, truyền hình), các cuộc thi sáng tác, viết, vẽ, tìm hiểu pháp luật về môi trường, các cuộc vận động quần chúng tham gia BVMT... Năm 2015, các phong trào, hoạt động có ý nghĩa về BVMT đã được tổ chức, huy động đông đảo nhân dân tham gia như: Cuộc thi Sáng tác ảnh về môi trường; Ngày hội tái chế chất thải hưởng ứng Giờ Trái đất năm 2015; Hội thi tuyên truyền về nước sạch, vệ sinh môi trường và thu gom, phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn ở Bắc Giang...
Để trang bị cho cộng đồng những kỹ năng hành động BVMT hiệu quả, nhiều chương trình giáo dục bao gồm cả chính khóa và ngoại khóa đã được triển khai tới các cấp học trong hệ thống giáo dục. Trong đó, những tài liệu, ấn phẩm, sách giáo khoa, sách tham khảo về BVMT đã được biên soạn và phát hành trong cả nước…
Tuy nhiên, hoạt động tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm về BVMT vẫn còn những hạn chế như chưa có sự phối hợp kịp thời và chặt chẽ giữa các cơ quan thông tin, báo chí; Công tác triển khai các hoạt động tuyên truyền pháp luật BVMT chưa thường xuyên; Việc vận động các tầng lớp nhân dân nâng cao kiến thức môi trường qua các chiến dịch chưa thường xuyên, liên tục... Nguyên nhân của tình trạng trên là do ý thức BVMT của cộng đồng dân cư chưa cao; nhận thức về nguy cơ ô nhiễm môi trường và những tác động tiêu cực của tình trạng ô nhiễm môi trường đến đời sống kinh tế - xã hội và sức khỏe người dân của nhiều cấp chính quyền, cơ quan quản lý, tổ chức, cá nhân ở nhiều địa phương chưa đầy đủ; nguồn ngân sách đầu tư cho BVMT chưa đáp ứng được yêu cầu…
Nhằm tiếp tục triển khai hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về BVMT cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp:
Tăng cường sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo các cấp, ngành, đoàn thể và tổ chức chính trị - xã hội trong việc tuyên truyền pháp luật về BVMT. Hàng năm, tiến hành sơ kết, tổng kết việc thực hiện Chương trình phối hợp đã ký kết của Bộ TN&MT, Sở TN&MT với các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể (Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên…).
Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về BVMT thông qua các phương tiện thông tin và truyền thông cũng như hoạt động giáo dục pháp luật về môi trường. Xây dựng văn hóa ứng xử thân thiện với môi trường trên cơ sở đổi mới tư duy, cách làm, hành vi ứng xử, ý thức trách nhiệm với thiên nhiên, môi trường. Đây là giải pháp phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay và mang tính chiến lược, lâu dài.
Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động BVMT, tạo cơ sở pháp lý và cơ chế, chính sách khuyến khích cá nhân, tổ chức và cộng đồng tham gia. Hình thành các loại hình tổ chức đánh giá, tư vấn, giám định, công nhận, chứng nhận về BVMT; khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia các dịch vụ thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải và các dịch vụ khác. Chú trọng xây dựng và thực hiện quy ước, hương ước, cam kết về BVMT và các mô hình tự quản về môi trường của cộng đồng dân cư, nhất là ở khu vực nông thôn. Phát triển các phong trào quần chúng, vận động nhân dân tích cực tham gia BVMT. Phát hiện và nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến trong hoạt động BVMT; gắn nội dung BVMT với phong trào Toàn dân tham gia BVMT.
Các cơ quan truyền thông đại chúng phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý nhà nước về môi trường và các tổ chức chính trị - xã hội xây dựng chuyên mục, chuyên đề, phóng sự về môi trường; đa dạng hóa hình thức và nội dung truyền thông môi trường; đưa tin chính xác, thường xuyên và kịp thời; phát hiện và kiên quyết đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật về BVMT.
Có thể nói, giáo dục môi trường là việc làm không thể thiếu để giúp mọi người hiểu biết về môi trường. Vì thế, chỉ có việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục với sự tham gia tích cực của các cấp, ngành, tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng là giải pháp quan trọng trong công tác BVMT, góp phần phát triển bền vững đất nước.
ThS. Phạm Thị Vui
Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương
ThS. Nguyễn Đình Việt
Học viện Chính trị Công an nhân dân
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 6/2016