Banner trang chủ
Thứ Ba, ngày 19/11/2024

Phát triển bền vững nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia, đô thị hóa, thích ứng với biến đổi khí hậu

22/07/2024

    Trong khuôn khổ thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học công nghệ cấp quốc gia “PTBV nông nghiệp, kinh tế nông thôn (KTNT) và nông dân gắn với chuyển đổi số quốc gia, đô thị hoá và thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH)”, mã số: KX.04.20/21-25, thuộc Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp quốc gia giai đoạn 2021 - 2025 do Hội đồng Lý luận trung ương chủ trì, ngày 20/7/2024, tại Hà Nội, Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã phối hợp với Ban chủ nhiệm Đề tài KX.04.20/21-25 tổ chức Hội thảo khoa hoạc Kết quả nghiên cứu Đề tài KX04.20 về phát triển bền vững (PTBV) nông nghiệp, KTNT và nông dân trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia, đô thị hóa và thích ứng với BĐKH. GS.TS. Trần Đức Viên, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Chủ nhiệm Đề tài K.X04.20/21-25; GS.TS. Phạm Văn Cường, TS. Cao Đức Phát, Phó Chủ tịch Hội đồng Học viện Nông nghiệp Việt Nam đồng chủ trì Hội thảo.

GS.TS. Phạm Văn Cường, Phó Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam phát biểu khai mạc Hội thảo

    Phát biểu khai mạc Hội thảo, GS.TS. Phạm Văn Cường, Phó Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam cho biết, sau gần 15 năm thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, với sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ, tổ chức đảng, sự chung sức, đồng lòng của toàn dân, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rất to lớn. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, nông nghiệp, kinh tế nông dân và đời sống nông dân phát triển còn thiếu bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm, tổ chức sản xuất kinh doanh chủ yếu vẫn dựa vào nông hộ nhỏ, thiếu liên kết, giá trị gia tăng thu được chưa cao. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém nêu trên chủ yếu là do: Nhận thức về vị trí, vai trò của nông nghiệp, KTNT, nông dân, chưa thật đầy đủ, đúng mức. Do vậy, cần thiết phải phải có nghiên cứu, đề xuất các quan điểm, định hướng, giải pháp mới đóng góp cho Văn kiện Đại hội XIV sắp tới của Đảng, phục vụ cho PTBV nông nghiệp, KTNT và nông dân gắn với những cơ hội, thách thức do bối cảnh mới: Chuyển đổi số, đô thị hóa, thích ứng với BĐKH đang đặt ra.

    GS.TS. Phạm Văn Cường chia sẻ, Học viện Nông nghiệp Việt Nam là một trường đại học công lập trọng điểm quốc gia, với lịch sử gần 70 năm xây dựng và phát triển. Sứ mạng của Học viện Nông nghiệp Việt Nam là đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu phát triển và chuyển giao khoa học công nghệ, tri thức mới trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn; đóng góp vào sự phát triển nền nông nghiệp và hội nhập quốc tế của đất nước. Trong khuôn khổ thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học công nghệ cấp quốc gia “PTBV nông nghiệp, KTNT và nông dân gắn với chuyển đổi số quốc gia, đô thị hoá và thích ứng với BĐKH” (mã số: KX.04.20/21-25) thuộc Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp quốc gia giai đoạn 2021-2025 do Hội đồng Lý luận trung ương chủ trì, Học viện Nông nghiệp Việt Nam phối hợp với Ban chủ nhiệm Đề tài KX.04.20/21-25 tổ chức Hội thảo với chủ đề “Kết quả nghiên cứu đề tài KX04.20 về PTBV nông nghiệp, KTNT và nông dân trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia, đô thị hoá và thích ứng với BĐKH”. Đây là diễn đàn học thuật để các nhà nghiên cứu, các giảng viên trong và ngoài Học viện thảo luận, tạo điều kiện để các thành viên tham gia thực hiện nhiệm vụ xin ý kiến chuyên gia nhằm xây dựng Báo cáo tổng kết kết quả nghiên cứu cứu của Đề tài, báo cáo kiến nghị chính sách PTBV nông nghiệp, KTNT, nông dân trước bối cảnh chuyển đổi số quốc gia, đô thị hóa và thích ứng với BĐKH. Đồng thời, Hội thảo được kỳ vọng sẽ cung cấp các luận cứ khoa học, từ đó kiến nghị tới Đảng, Nhà nước những vấn đề về cơ hội, thách thức  của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong bối cảnh BĐKH, góp phần chuẩn bị những tài liệu quan trọng tiến tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng.

    Hội thảo đã lắng nghe tham luận về: Một số khuyến nghị PTBV nông nghiệp, KTNT và nông dân gắn với thích ứng BĐKH; thách thức và giải pháp PTBV kinh tế nông nghiệp, nông thôn trong tiến trình chuyển đổi số ở Việt Nam; một số giải pháp PTBV nông nghiệp, KTNT và nông dân việt nam gắn với đô thị hóa; chuyển đổi hệ thống lương thực, thực phẩm minh bạch, trách nhiệm và bền vững ở Việt Nam; tích hợp các giải pháp giảm nhẹ BĐKH, tăng trưởng xanh, nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp sinh thái để đạt được phát triển nông nghiệp bền vững; cải thiện năng suất lao động nông nghiệp góp phần PTBV nền nông nghiệp Việt Nam… Đặc biệt, trong tham luận “Một số khuyến nghị PTBV nông nghiệp, KTNT và nông dân gắn với thích ứng BĐKH” ThS. Nguyễn Mạnh Hiếu (Học viện Nông nghiệp Việt Nam), đại diện nhóm nghiên cứu thông tin, BĐKH đã và đang hiện hữu với những biểu hiện vô cùng phức tạp, khó dự đoán. Dưới tác động của BĐKH, chỉ trong 10 năm gần đây, các loại thiên tai như bão, lũ, sạt lở đất, úng ngập, hạn hán, xâm nhập mặn... đã gây thiệt hại đáng kể, làm chết và mất tích hàng nghìn người, thiệt hại về tài sản ước tính 1,5% GDP/năm. Trong khi đó, cơ chế chính sách thúc đẩy thích ứng BĐKH còn hạn chế và chồng chéo; nhiều chính sách, chương trình hành động, các chương trình dự án vô hình chung có thể tạo ra sự thiếu đồng bộ trong việc thực hiện các biện pháp khuyến khích phát triển và nhân rộng mô hình thích ứng với BĐKH. Bên cạnh đó, nguồn lực các cơ quan chuyên trách giám sát nông nghiệp thích ứng BĐKH vẫn còn một số khó khăn, hạn chế như hệ thống chính sách chưa hoàn thiện, chồng chéo, cơ sở dữ liệu về BĐKH chưa hoàn chỉnh, cơ chế chia sẻ thông tin và các thiết chế quản lý hoạt động thích ứng BĐKH còn hạn chế… Từ thực tế đó, nhóm nghiên cứu kiến nghị, để PTBV nông nghiệp, KTNT và nông dân gắn với thích ứng BĐKH, cần tập trung thực hiện các giải pháp: Tuyên truyền, tập huấn nâng cao nhận thức cho người dân và nâng cao năng lực thích ứng BĐKH cho chính quyền địa phương các cấp; ứng dụng khoa học công nghệ và đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong thích ứng với BĐKH; rà soát, xây hệ thống chính sách, cơ chế thống nhất trong thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng BĐKH; thực hiện hiệu quả chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi thích ứng BĐKH; xây dựng hệ thống cảnh báo các tác động của BĐKH không chỉ cho người dân mà còn cho các cấp chính quyền.

Các đại biểu tham dự Hội thảo chụp ảnh lưu niệm

    Đề cập đến các giải pháp PTBV nông nghiệp, KTNT và nông dân việt nam gắn với đô thị hóa, TS. Trần Mạnh Hải cho biết, tại Việt Nam, nông nghiệp, nông thôn là lợi thế chính trong PTBV, nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, khó khăn, thách thức liên quan đến tác động của đô thị hóa, BĐKH, toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0... Xuất phát từ thực tiễn trên, nhóm nghiên cứu của TS. Trần Mạnh Hải đã tiến hành nghiên cứu về những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội cùng như thách thức trong PTBV nông nghiệp, KTNT và nông dân gắn với bối cảnh đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng. Theo đó, đô thị hóa đóng vai trò quan trọng trong thành công của Việt Nam trong gần 40 năm đổi mới, với tỷ lệ dân số sống ở các thị trấn và thành phố tăng từ ít hơn 20% (năm 1990) lên hơn 38,1% vào năm 2023. 10 năm gần đây, tỷ lệ đô thị hóa của Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng, từ 30,5% (năm 2010) lên 42% (năm 2023). Tuy nhiên, mặt hạn chế của quá trình đô thị hóa hiện nay là chưa gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông thôn mới; hạ tầng kỹ thuật còn thiếu tính đồng bộ, thiếu tính kết nối liên vùng và giữa các lĩnh vực làm giảm hiệu quả khai thác, vận hành; đất nông nghiệp thu hẹp nhanh, áp lực lên sản xuất nông nghiệp bền vững…

    Từ thực thế trên, TS. Trần Mạnh Hải kiến nghị, để PTBV nông nghiệp, KTNT và nông dân Việt Nam gắn với đô thị hóa, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau: (i) Giải quyết vấn đề quy hoạch tổng thể không gian phát triển kinh tế - xã hội gắn với đô thị hóa (rà soát quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tại các địa phương và cả nước đảm bảo thực hiện yêu cầu phát triển hài hòa, gắn kết giữa đô thị và nông thôn; làm rõ mối quan hệ giữa các loại quy hoạch trong hệ thống quy hoạch đô thị và nông thôn, mối quan hệ của các quy hoạch thuộc hệ thống quy hoạch đô thị và nông thôn với các quan hệ thuộc hệ thống quan quốc gia và các quy hoạch kỹ thuật chuyên ngành; Gắn quy hoạch xây dựng các vùng sản xuất tập trung với thu hút đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông sản và phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cùng với đó, các địa phương cần đẩy nhanh tiến độ quy hoạch phát triển nông nghiệp trên cơ sở nhu cầu thị trường và lợi thế từng vùng nhằm sử dụng đất nông nghiệp tiết kiệm, có hiệu quả; đồng thời, rà soát quy hoạch ở vùng sản xuất lúa cho hợp lý, trên cơ sở đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm và hiệu quả kinh tế - xã hội. (ii) Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật và thực hiện các chính sách một cách đồng bộ, linh hoạt (Kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp để phát triển đô thị; khuyến khích cá nhân, doanh nghiệp thực hiện tích tụ, tập trung đất nông nghiệp để mở rộng quy mô sản xuất thông qua miễn giảm thuế thu nhập từ sử dụng đất; hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch nông nghiệp, nông thôn, du lịch sinh thái và các loại hình du lịch khác gắn với nông nghiệp, nông thôn phục vụ nhu cầu dân cư đô thị; có cơ chế điều tiết, phân bổ ngân sách bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các địa phương có diện tích đất trồng lúa, đất rừng lớn với các địa phương khác; hỗ trợ nâng cao đời sống của người trồng lúa, trồng rừng…); (iii) Tăng cường đầu tư và huy động nguồn lực nhằm phát triển đồng bộ và hiện đại hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn (Chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng kết nối các đô thị và nông thôn; ban hành, đổi mới cơ chế, chính sách huy động cộng đồng tham gia, giám sát trong đầu tư và quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững cơ sở hạ tầng nông thôn, bao gồm chính sách về xã hội hóa, chính sách hỗ trợ về kỹ thuật và kinh phí cho các tổ chức cộng đồng tham gia quản lý cơ sở hạ tầng, chính sách thúc đẩy phân cấp quản lý cơ sở hạ tầng, chính sách khuyến khích đấu thầu quản lý cơ sở hạ tầng nông thôn... Cùng với đó, (iv) Thúc đẩy chuyển đổi số và ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại trong nông nghiệp, KTNT; (v) Nâng cao chất lượng và phát triển nguồn nhân lực nông thôn; (vi) Phát triển thị trường và xây dựng chuỗi giá trị nông sản; (vii) Đổi mới cơ chế tổ chức, hoạt động của các tổ chức của nông dân và phát triển các cộng đồng thôn bản ở nông thôn; (viii) Đảm bảo an sinh xã hội và hỗ trợ đối tượng dễ bị tổn thương; (ix) Tăng cường BVMT và tài nguyên thiên nhiên khu vực nông thôn…

    Trình bày về quá trình chuyển đổi số với nông nghiệp, nhóm nghiên cứu Ngô Minh Hải, Nguyễn Minh Đức, Trần Thị Thu Hương, Nguyễn Hữu Nhuần cho rằng, một trong những điểm nghẽn của quá trình chuyển đổi số nông nghiệp hiện nay là hạ tầng kết nối chưa đồng bộ và chi phí sử dụng các mạng 3G, 4G vẫn cao, đặc biệt là với các hộ khó khăn ở các vùng sâu, vùng xa; thiếu các ứng dụng/nền tảng quản lý sản xuất, kinh doanh phù hợp với nhu cầu và khả năng sử dụng của các doanh nghiệp nông nghiệp, hợp tác xã và nông dân. Người dân nông thôn, đặc biệt là nông dân, còn thiếu kiến thức và kỹ năng về công nghệ thông tin, dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng và sử dụng các công nghệ số. Do vậy, cần đẩy mạnh phát triển nông dân số, trang trại số, hợp tác xã số; thay đổi tư duy, nâng cao năng lực về công nghệ thông tin, công nghệ số; khuyến khích thị trường các nền tảng, ứng dụng số phù hợp với nông dân, bảo đảm an ninh mạng; xây dựng các mô hình về chuyển đổi số trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp…

    Phát biểu kết luận Hội thảo, GS.TS. Trần Đức Viên, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Chủ nhiệm Đề tài K.X04.20/21-25 cho biết, Hội thảo đã tạo diễn đàn học thuật để các nhà nghiên cứu, giảng viên trong và ngoài Học viện thảo luận, tìm ra nút thắt, điểm nghẽn trong quá trình triển khai quan điểm, chính sách phát triển nông nghiệp, KTNT, nông dân gắn với chuyển đổi số quốc gia, đô thị hóa và thích ứng với BĐKH thời gian qua, từ đó, đề xuất quan điểm, định hướng, giải pháp mới cho PTBV nông nghiệp, KTNT, nông dân gắn với chuyển đổi số quốc gia, đô thị hóa và thích ứng với BĐKH. Những đề xuất  này sẽ được tổng hợp, gửi đến các ngành chức năng để có thêm luận cứ khoa học, định hướng cho quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn trong tương lai...

Gia Linh

Ý kiến của bạn