Banner trang chủ
Thứ Năm, ngày 28/03/2024

Tăng cường kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển bền vững

17/03/2021

     Thời gian qua, ô nhiễm môi trường không khí tại nhiều địa phương trên toàn quốc vẫn có chiều hướng gia tăng cả về quy mô, mức độ, nhất là tại các thành phố (TP) lớn như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội và sức khỏe cộng đồng. Nguyên nhân chính do bụi, khí thải từ các phương tiện giao thông, hoạt động xây dựng, hoạt động công nghiệp với lượng thải lớn và chưa được kiểm soát hiệu quả; diện tích cây xanh, mặt nước trong phát triển đô thị chưa đạt yêu cầu; việc tổ chức thực hiện các quy định pháp luật, chương trình, nhiệm vụ về kiểm soát ô nhiễm không khí chưa đồng bộ, hiệu quả.

     Nhằm tăng cường kiểm soát ô nhiễm môi trường (ÔNMT) không khí, giảm thiểu tác động bất lợi đến sức khỏe người dân, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, ngày 18/1/2021, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 03/CT-TTg về tăng cường kiểm soát ÔNMT không khí, trong đó, yêu cầu các Bộ, UBND các tỉnh, TP trực thuộc Trung ương tập trung đẩy mạnh thực hiện các chương trình, nhiệm vụ về quản lý chất lượng không khí (CLKK) theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 985a/QĐ-TTg ngày 1/6/2016 phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý CLKK đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025. Đặc biệt, từ nay đến giữa năm 2021, cần thực hiện ngay việc rà soát, đánh giá tình hình chấp hành pháp luật về kiểm soát bụi, khí thải tại các cơ sở công nghiệp, hoạt động giao thông, xây dựng thuộc phạm vi quản lý; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét tạm đình chỉ, đình chỉ các cơ sở gây ÔNMT nghiêm trọng theo quy định của pháp luật.

Diễn biến CLKK tại các đô thị lớn

     Giai đoạn 2016-2020, mặc dù chất lượng môi trường không khí mỗi năm có sự khác nhau, song tình trạng ô nhiễm bụi tại các TP, đô thị lớn, các khu vực công nghiệp, đặc biệt là tình trạng ô nhiễm bụi mịn (PM2.5 và PM10) tại một số TP lớn như TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh luôn là một trong những vấn đề nóng và đặt ra nhiều thách thức. Mức độ ô nhiễm bụi mịn có xu hướng tăng từ năm 2017 đến năm 2019 và giảm năm 2020. Các thông số trong không khí khác (như NO2, O3, CO, SO2) cơ bản chưa bị ô nhiễm, kết quả quan trắc cho thấy hầu hết các giá trị nằm trong ngưỡng giới hạn cho phép của QCVN 05:2013/BTNMT. Tại khu vực nông thôn, miền núi, CLKK vẫn duy trì tương đối ổn định ở mức khá tốt và trung bình.

     Kết quả tính toán chỉ số CLKK (AQI) cho thấy, CLKK tại T.P Hà Nội và một số TP khu vực miền Bắc có thời điểm trong năm ở mức kém, thậm chí là mức xấu, thường xuất hiện vào mùa đông. Tại TP. Hồ Chí Minh, vào mùa khô cũng ghi nhận CLKK chạm mức xấu. Các TP. Huế, Đà Nẵng nhìn chung CLKK vẫn duy trì ở mức tốt và trung bình.

     CLKK có sự phân hóa theo vùng, miền và theo quy luật mùa trong năm. Các đô thị ở miền Bắc nhìn chung có giá trị trung bình năm của thông số PM10 và PM2.5 cao hơn các đô thị miền Trung và miền Nam. Xu hướng biến động của PM10 và PM2.5 tại các tỉnh thành miền Bắc tăng cao vào thời gian mùa đông, ít mưa, trong khoảng từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau (tại các trạm quan trắc ở Hà Nội, Phú Thọ, Quảng Ninh). Giá trị trung bình năm của PM2.5 và PM10 tại tất cả các trạm quan trắc tự động không khí liên tục tại Hà Nội giai đoạn năm 2018 - 2020 đều vượt quá giới hạn cho phép so với QCVN từ 1,1 đến 2,2 lần, cao nhất ghi nhận năm 2019. Trong khi đó, các TP ở Nam Trung Bộ, điển hình như Đà Nẵng và Nha Trang, giá trị thông số bụi PM10 và PM2.5 ít biến động giữa các tháng trong năm. Đối với các TP ở khu vực Nam Bộ, giá trị thông số bụi mịn có sự phân hóa khá rõ, tăng cao trong mùa khô (từ tháng 4 đến tháng 9) và giảm trong mùa mưa (từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau). Tại TP. Hồ Chí Minh, giá trị trung bình năm của PM2.5 khá ổn định, mức độ biến động không đáng kể.

    Những nguyên nhân chính phát sinh bụi, khí thải gây tác động, ÔNMT không khí được xác định là từ hoạt động của các phương tiện giao thông vận tải, xây dựng, sản xuất công nghiệp với lượng thải lớn và chưa được kiểm soát hiệu quả; diện tích cây xanh, mặt nước trong phát triển đô thị chưa đạt yêu cầu. Theo báo cáo của UBND TP. Hà Nội, hiện tại TP có hơn 770 nghìn xe ô tô, gần 5,8 triệu xe máy và TP Hồ Chí Minh là 700 nghìn ô tô, 7,5 triệu xe máy lưu thông hàng ngày, chưa tính đến các phương tiện giao thông của người dân từ các địa phương khác đi qua, phương tiện giao thông của Quân đội, Công an, trong đó có nhiều phương tiện cũ không đảm bảo tiêu chuẩn khí thải, niên hạn để lưu thông trong TP.

 Khói bụi của nhà máy xi măng là một trong những nguyên nhân gây ÔNMT không khí

Công tác quản lý CLKK

     Nhận thức được tác hại của ÔNMT không khí đến sức khỏe, đời sống của người dân cũng như tới quá trình phát triển bền vững, Bộ TN&MT, các Bộ, ngành, địa phương đã thực hiện nhiều giải pháp để bảo vệ, cải thiện chất lượng môi trường không khí; trong đó tập trung triển khai các nhiệm vụ, giải pháp đã được Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định số 985a/QĐ-TTg. Một số kết quả đạt được bước đầu như sau:

     Một là, đã hình thành, hoàn thiện và tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật giảm thiểu ô nhiễm không khí, cụ thể là: (1) Quy định trách nhiệm và một số biện pháp quản lý CLKK trong Luật BVMT năm 2014 và các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật. Đến thời điểm hiện tại, đã đưa một số quy định mới vào Luật BVMT năm 2020 (thay thế Luật BVMT năm 2014) về trách nhiệm xây dựng Kế hoạch quốc gia về quản lý CLKK, Kế hoạch quản lý chất lượng môi trường không khí cấp tỉnh; chỉ đạo thực hiện biện pháp khẩn cấp trong trường hợp chất lượng môi trường không khí bị ô nhiễm nghiêm trọng trên phạm vi liên tỉnh, liên vùng và xuyên biên giới, đánh giá, theo dõi và công khai thông tin về chất lượng môi trường không khí, cảnh báo cho cộng đồng dân cư và triển khai biện pháp xử lý trong trường hợp chất lượng môi trường không khí bị ô nhiễm gây tác động đến sức khỏe cộng đồng; Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý CLKK đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025 của Thủ tướng Chính phủ; Quy hoạch mạng lưới quan trắc TN&MT quốc gia giai đoạn 2016 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030; (2) Yêu cầu các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, các khu công nghiệp có quy mô xả thải lớn phải lắp đặt thiết bị quan trắc tự động, liên tục, truyền dữ liệu về cơ quan quản lý môi trường tại địa phương và Trung ương; (3) Xây dựng và tổ chức thực hiện một số chương trình, đề án.

     Hai là, tăng cường công bố thông tin, khuyến cáo về ÔNMT không khí: Đầu tư cho các hoạt động quan trắc, phân tích ÔNMT không khí, đặc biệt tại các đô thị lớn trong thời gian qua để cung cấp thông tin cảnh báo CLKK tới người dân, cộng đồng đã có nhiều chuyển biến tích cực; Số liệu quan trắc CLKK và chỉ số AQI, các cảnh báo, khuyến nghị đã được đăng tải chính thức trên trang thông tin điện tử. Bộ TN&MT đã thường xuyên tổng hợp các kết quả quan trắc, đánh giá CLKK, đưa ra cảnh báo, khuyến nghị và đăng tải chính thức trên website của Tổng cục Môi trường tại địa chỉ vea.gov.vn và công bố chỉ số CLKK Việt Nam (VN_AQI) trên ứng dụng di động. Bên cạnh đó, chỉ số CLKK tại các trạm quan trắc quốc gia cũng được cập nhật và công khai 24/24h tại địa chỉ cem.gov.vn. UBND TP. Hà Nội cũng thực hiện công bố và cảnh báo về CLKK tại địa chỉ moitruongthudo.vn.

     Ba là, đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng về BVMT không khí. Theo đó, đã chỉ đạo, định hướng các cơ quan báo trí tập trung thông tin, tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật, các cơ chế, chính sách liên quan đến BVMT nói chung cũng như quản lý CLKK, tác hại của ô nhiễm không khí, lợi ích của việc sử dụng các phương tiện công cộng đối với môi trường không khí nói riêng; chỉ đạo xây dựng các chương trình, chuyên trang, chuyên mục, tăng cường các bài viết, phóng sự chuyên đề để tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân về CLKK.

     Bốn là, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quản lý CLKK với một số tổ chức quốc tế. Bộ TN&MT đã triển khai hợp tác với Nhật Bản, Tổ chức sáng kiến không khí sạch châu Á (CAI-ASIA) về các giải pháp giảm thiểu phát thải các chất ô nhiễm không khí và CO2 ở Việt Nam; Phối hợp với các tổ chức quốc tế như Hiệp hội Công nghiệp Nhật Bản, Ngân hàng Thế giới, JICA… tổ chức các hội thảo tăng cường năng lực kiểm soát ô nhiễm không khí, kiểm soát khí thải công nghiệp cho các địa phương, các cán bộ quản lý ở Bộ, ngành liên quan. Riêng đối với TP. Hà Nội đã có các hoạt động hợp tác với Ngân hàng Thế giới (WB) tiến hành lấy mẫu, phân tích thành phần hóa học của bụi PM2.5 nhằm xác định thành phần ô nhiễm không khí của TP; hợp tác với Tổ chức phi Chính phủ C40 triển khai các hoạt động nhằm nghiên cứu, rà soát và tham vấn nhằm hỗ trợ TP. Hà Nội cập nhật, xây dựng khung Kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu lần thứ 3; hợp tác với  Hội đồng Quốc tế về các Sáng kiến Môi trường Địa phương (ICLEI) về tham vấn cộng đồng, tạo kết nối giữa cơ quan quản lý nhà nước với các đơn vị, tổ chức, cá nhân trong việc đề xuất các giải pháp giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện CLKK; hợp tác với Tổ chức hợp tác quốc tế Đức (GIZ) để khảo sát, đề xuất triển khai thực hiện nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của giao thông tới CLKK.

     Các địa phương cũng đã cải thiện từng bước chất lượng môi trường không khí trên địa bàn: Xây dựng và thực hiện Kế hoạch quản lý CLKK tại địa phương; tăng cường kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ quy định pháp luật về BVMT các cơ sở phát sinh khí thải; nâng cao năng lực quản lý nhà nước về BVMT không khí; xây dựng hạ tầng kết nối phục vụ cho việc truyền dữ liệu về khí thải công nghiệp từ các cơ sở có lắp đặt hệ thống quan trắc khí thải tự động, liên tục về Sở TN&MT và Bộ TN&MT. Đặc biệt, TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đã triển khai đồng bộ từ việc ban hành các chỉ thị, quy định và tổ chức các giải pháp kỹ thuật để kiểm soát các nguồn thải từ phương tiện giao thông, công nghiệp.

     Bên cạnh các kết quả đạt được, công tác quản lý CLKK vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: Thực trạng ÔNMT không khí tại một số thánh phố lớn vẫn tiếp tục diễn ra, tại một số thời điểm, một số khu vực ở mức xấu; Nguồn lực (tổ chức bộ máy, nhân lực, kinh phí) về thực hiện các hoạt động quản lý CLKK, quan trắc và công bố thông tin chất lượng môi trường không khí chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn; Hoạt động và kinh phí đầu tư của Nhà nước cho xây dựng, lắp đặt, duy trì các trạm quan trắc không khí tự động liên tục còn chưa tương xứng, chưa đáp ứng với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu quản lý trên thực tế; Trách nhiệm quản lý nguồn thải gây ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn, khu đông dân cư chưa được phân định rõ ràng. Ngoài ra, ý thức của người dân, doanh nghiệp về BVMT không khí còn chưa cao; tình trạng công trình xây dựng, công trình giao thông không bảo đảm yêu cầu về môi trường vẫn xảy ra, tình trạng xả rác bừa bãi, đốt chất thải, phụ phẩm sau thu hoạch vẫn chưa có chuyển biến tích cực…

Đến năm 2025, kiểm soát, dự báo được diễn biến CLKK

     Nhằm thực hiện các biện pháp cấp bách, trước mắt để kiểm soát, giảm thiểu tác động xấu đến môi trường không khí, Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ cụ thể cho từng Bộ, ngành, địa phương:

     Bộ TN&MT: Tổ chức đánh giá kết quả thực hiện Quyết định số 985a/QĐ-TTg, đề xuất kế hoạch quản lý CLKK trong giai đoạn 2021 - 2025, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong quý I năm 2021; Tăng cường quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình quan trắc CLKK bảo đảm hiệu quả, thực hiện kiểm soát chặt chẽ về chất lượng trong quan trắc môi trường không khí, công bố kết quả quan trắc và kịp thời cảnh báo ô nhiễm không khí cho cộng đồng; Khẩn trương xây dựng và triển khai thực hiện việc đầu tư, tăng cường năng lực quan trắc chất lượng môi trường không khí phù hợp với quy hoạch tổng thể quan trắc môi trường quốc gia, đảm bảo đến năm 2025 phải kiểm soát, cảnh báo, dự báo được diễn biến CLKK tại các đô thị, vùng miền trên phạm vi cả nước.

     Đồng thời, tập trung rà soát, hoàn chỉnh hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia về môi trường đối với khí thải công nghiệp, khí thải của phương tiện giao thông cơ giới đường bộ lưu hành ở Việt Nam, CLKK xung quanh tiệm cận với tiêu chuẩn của các nước tiên tiến trên thế giới; rà soát, báo cáo Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện lộ trình áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải của phương tiện giao thông cơ giới đường bộ lưu hành ở Việt Nam, hoàn thành trong quý IV năm 2021. Chủ trì xây dựng, ban hành tiêu chí, chứng nhận nhãn sinh thái đối với các sản phẩm, phương tiện và dịch vụ giao thông vận tải thân thiện môi trường. Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương rà soát quy định pháp luật về BVMT không khí, hoàn thiện theo thẩm quyền hoặc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoàn thiện các quy định, chính sách pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí.

     Bộ Giao thông vận tải: Khẩn trương xây dựng chương trình, đề án quốc gia phát triển phương tiện giao thông vận tải, hệ thống giao thông vận tải công cộng thân thiện với môi trường trong đó có phương tiện giao thông điện trình Thủ tướng Chính phủ. Đẩy mạnh tuyên truyền, khuyến khích người dân sử dụng phương tiện giao thông công cộng, phương tiện giao thông vận tải thân thiện với môi trường; Tổ chức triển khai thực hiện lộ trình áp dụng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với khí thải phương tiện giao thông vận tải; Kịp thời hướng dẫn và theo dõi chặt chẽ việc thực hiện công tác BVMT, nhất là các giải pháp hiệu quả đảm bảo ngăn ngừa, hạn chế, giảm thiểu bụi, khí thải trong hoạt động xây dựng công trình giao thông.

     Bộ Công Thương: Tăng cường kiểm soát đối với các dự án, nhà máy có nguồn thải lớn, có nguy cơ gây ÔNMT cao như: nhiệt điện than, dầu khí, thép, hóa chất và phân bón hóa học, chế biến và khai thác khoáng sản...; Nghiên cứu, xây dựng chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp sử dụng năng lượng sạch và công nghệ thân thiện với môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên trong hoạt động sản xuất; Rà soát, đánh giá năng lực sản xuất, nhập khẩu, cung ứng nhiên liệu sử dụng cho xe cơ giới theo đúng quy chuẩn kỹ thuật và lộ trình áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải đối với phương tiện giao thông cơ giới đường bộ lưu hành ở Việt Nam, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước tháng 6/2021; Chỉ đạo thực hiện bổ sung quy hoạch phát triển điện lực các tỉnh/TP, đáp ứng nhu cầu khi phát triển phương tiện giao thông sử dụng năng lượng điện; Nghiên cứu, xây dựng quy định, quy chuẩn đối với than nhập khẩu (hàm lượng tro, hàm lượng lưu huỳnh tối đa cho phép) bảo đảm yêu cầu về BVMT; đề xuất chính sách khai thác, chế biến, nhập khẩu nguyên liệu (lithium, coban...) phục vụ cho sản xuất pin của các phương tiện giao thông điện.

     Bộ Xây dựng: Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định, biện pháp về kiểm soát bụi, khí thải trong hoạt động xây dựng; Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch đô thị bảo đảm tỷ lệ cây xanh, mặt nước trong đô thị đáp ứng yêu cầu của quy chuẩn, tiêu chuẩn liên quan.

     Bộ NN&PTNT: Chỉ đạo, hướng dẫn triển khai việc thu gom, xử lý, chế biến phụ phẩm sau thu hoạch thành các sản phẩm có ích; tăng cường công tác tuyên truyền tới người dân không đốt phụ phẩm nông nghiệp và xử lý đúng quy định BVMT.

     Bộ Khoa học và Công nghệ: Xây dựng, ban hành các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nhiên liệu theo hướng giảm phát thải các chất gây ô nhiễm không khí phù hợp với lộ trình áp dụng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với khí thải phương tiện giao thông vận tải; Hỗ trợ, đầu tư nghiên cứu khoa học cho các hoạt động về quản lý và kiểm soát CLKK.

     Bộ Y tế nghiên cứu, đánh giá tác động, cảnh báo nguy cơ ô nhiễm không khí đến bệnh tật, sức khỏe cộng đồng và đề xuất các biện pháp bảo vệ sức khỏe cộng đồng, trước hết tại các khu đô thị lớn, địa bàn tập trung nhiều nguồn thải có nguy cơ ô nhiễm cao làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng môi trường không khí. Chỉ đạo, kiểm tra thực hiện việc quan trắc các tác động từ hoạt động của ngành y tế đối với môi trường không khí; tăng cường kiểm soát ô nhiễm không khí từ các lò đốt chất thải y tế.

     Bộ Tài chính chủ trì rà soát, hướng dẫn thực hiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ về BVMT theo quy định của Luật BVMT năm 2020.

     Bộ Công an chỉ đạo điều tra, xử lý nghiêm các vụ vi phạm pháp luật về môi trường gây ô nhiễm không khí nghiêm trọng.

     Bên cạnh đó, các Bộ: Thông tin và Truyền thông, TN&MT, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, UBND các tỉnh, TP trực thuộc trung ương, các cơ quan báo chí đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về CLKK, các biện pháp ngăn ngừa ô nhiễm không khí; Kịp thời thông tin, cảnh báo về chất lượng môi trường không khí, các nguy cơ và tác hại của ô nhiễm không khí tới sức khỏe con người, các tổ chức, cá nhân có hoạt động gây ô nhiễm không khí nghiêm trọng; Sử dụng thông tin về CLKK do các cơ quan có thẩm quyền cung cấp; Xử lý nghiêm các trường hợp đưa thông tin sai lệch, gây hoang mang trong cộng đồng theo quy định của pháp luật.

     Đặc biệt, UBND TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh, TP có nguy cơ cao ô nhiễm không khí: Thực hiện nghiêm việc xây dựng và triển khai Kế hoạch quản lý CLKK của địa phương theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 985a/QĐ-TTg; Chỉ đạo thực hiện các biện pháp ứng phó trong trường hợp không khí bị ô nhiễm nghiêm trọng trên địa bàn quản lý; triển khai công tác kiểm kê nguồn khí thải, quan trắc, đánh giá về ô nhiễm bụi (PM10, PM2.5), hoàn thành trước ngày 31/12/2021; Xây dựng và triển khai thực hiện quy hoạch mạng lưới quan trắc CLKK của địa phương. Bố trí nguồn lực đầu tư, lắp đặt bổ sung, tăng cường số lượng các trạm quan trắc CLKK tự động liên tục; thường xuyên tổ chức thực hiện các chương trình quan trắc CLKK định kỳ trên địa bàn; cập nhật, cung cấp thông tin kịp thời về CLKK trên địa bàn cho nhân dân. Đẩy nhanh việc ban hành và thực hiện kế hoạch phát triển hệ thống giao thông công cộng, ưu tiên phương tiện sử dụng năng lượng sạch, không phát thải; thu hồi, loại bỏ phương tiện cơ giới cũ nát, lọc hậu, không đảm bảo tiêu chuẩn lưu hành gây ÔNMT trong TP; phát triển giao thông phi cơ giới; khuyến khích người dân sử dụng phương tiện giao thông công cộng, giảm phương tiện cá nhân; đẩy mạnh tuyên truyền sử dụng phương tiện giao thông thân thiện với môi trường…

Lê Hoài Nam, Vụ trưởng

Nguyễn Hoàng Đức, chuyên viên chính

Vụ Quản lý chất lượng môi trường, Tổng cục Môi trường

(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 2/2021)


 

Ý kiến của bạn