20/03/2025
Ô nhiễm không khí là vấn đề nghiêm trọng hiện nay, ước tính số người tử vong mỗi năm vì ô nhiễm không khí cao hơn tổng số người chết vì Covid-19. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng trên là sự gia tăng không kiểm soát của các phương tiện giao thông sử dụng nhiên liệu hóa thạch, nguồn phát thải chính của bụi mịn PM2.5 và các khí nhà kính như CO₂. Mức độ phát thải này không chỉ là tác nhân chính gây ô nhiễm không khí mà còn đóng góp lớn vào hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu. Tại Việt Nam, tình trạng ô nhiễm không khí, nhất là các thành phố lớn như Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh trong những năm gần đây đã đạt đến mức báo động nghiêm trọng. Để giảm thiểu ô nhiễm không khí, các chuyên gia đã khuyến nghị nhiều giải pháp trong đó có việc nghiên cứu áp dụng công cụ thuế khí thải...
Phát biểu tại Toạ đàm “Ô nhiễm không khí và giao thông: Cơ hội, thách thức cho Việt Nam và thế giới” diễn ra trong khuôn khổ Tuần lễ Khoa học Công nghệ VinFuture 2024 (từ ngày 4 - 7/12/2024), PGS. Hồ Quốc Bằng, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu ô nhiễm không khí và biến đổi khí hậu (APAC) đã công bố các dữ liệu nghiên cứu và chỉ ra những nguồn gây ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn như Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Theo đó, các nguồn gây ô nhiễm không khí của hai thành phố lớn tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh chủ yếu là từ giao thông vận tải, sản xuất công nghiệp và nguồn điện. Điển hình như tại Hà Nội, với khoảng 8,5 triệu dân (thống kê năm 2022), hơn 6 triệu xe máy và 690.000 ô tô, cùng khoảng 2.000 nhà máy. Các hoạt động giao thông đường bộ sản phát thải ra các khí như NOx (87%), CO (92%), SO2 (57%), NMVOC (86%), CH4 (96%) và 74% PM2.5. Hoạt động sản xuất công nghiệp phát thải 39% khí SO2 tại Hà Nội. Kết quả kiểm kê phát thải dùng mô hình emisen, Hà Nội có tỷ lệ phát thải giao thông lớn nhất.
Tại TP. Hồ Chí Minh có hơn 9 triệu dân, gần 7,4 triệu xe máy và 400.000 ô tô và 2780 cơ sở công nghiệp phát thải. Trong đó giao thông chủ yếu phát thải các chất ô nhiễm như NO2, CO (97,8%), SO2 (37,7%), NMVOC (42,9%), CH4, nhất là bụi mịn PM2.5 (18%).
Toạ đàm “Ô nhiễm không khí và giao thông: Cơ hội, thách thức cho Việt Nam và thế giới”
Từ góc độ nghiên cứu phân tích về sự hình thành sương mù tại các đô thị: Vai trò hóa học của nước trong các hạt aerosol và muội than, GS. Yafang Cheng, Viện Nghiên cứu Hóa học Max Planck (Đức) đã cung cấp con số đáng báo động khi có tới 9 triệu người tử vong ở độ tuổi trẻ vào năm 2019 vì ô nhiễm không khí, trong khi tổng số người tử vong vì Covid-19 trên toàn cầu chỉ có 7 triệu.
Theo GS. Yafang Cheng, Aerosol (sol khí) là những bọt nước li ti trong không khí có kích thước siêu nhỏ. Đây là 1 trong những nguyên nhân hàng đầu gây ô nhiễm không khí, cũng như gây ra cái chết cho hàng triệu người mỗi năm trên thế giới. Do đó, so với Covid-19, sol khí nguy hiểm hơn và việc lý giải được cơ chế tác động của sol khí đến khí hậu và sức khoẻ con người còn cấp bách hơn.
GS. Yafang Cheng cũng đưa ra cảnh báo trong những năm tới, tình trạng khí quyển này có thể trầm trọng hơn gấp 3 - 4 lần, do ảnh hưởng từ các yếu tố như bức xạ nhiệt theo mùa, biến đổi khí hậu, lượng carbon đen trong không khí... Hiện tượng ô nhiễm này có thể dễ dàng quan sát được bằng mắt thường, trông giống như sương mù, và tần suất xuất hiện vào mùa đông nhiều hơn mùa hè. Tại Việt Nam, hiện tượng ô nhiễm sol khí này vẫn được quen gọi là mù quang hóa. Tuy nhiên, các hợp chất đã tương tác với sol khí để kích hoạt phản ứng quang hoá, tạo ra hiện tượng ô nhiễm vô cùng phức tạp, liên quan với nhiều yếu tố khác nhau cũng như các điều kiện khí hậu, khí tượng tại từng khu vực địa lý khác nhau.
Ví dụ, ô nhiễm sol khí diễn ra nhiều hơn vào mùa đông là do khi không khí lạnh nén xuống mặt đất khiến các chất gây ô nhiễm như sunfat, ni tơ và các chất hữu cơ khác bị kẹt lại ở tầng thấp trong tầng đối lưu, không thể phát tán. Chúng tương tác với sol khí và tạo ra phản ứng hoá học làm không khí trở nên mù mịt. Điều này cũng lý giải vì sao Hà Nội thường xuất hiện mù quang hoá nhiều hơn TP. Hồ Chí Minh. Đặc biệt “điều kiện khí hậu càng bất lợi càng thúc đẩy ô nhiễm không khí”, GS. Cheng nhấn mạnh.
Bàn về giải pháp, cơ chế để thay đổi ô nhiễm không khí ở Việt Nam, GS. Daniel Kammen, Đại học California, Berkeley (Hoa Kỳ) cho rằng, ô nhiễm là vấn đề toàn cầu, không có ranh giới, không biên giới. Khi doanh nghiệp muốn chuyển địa bàn sản xuất cần tăng cường nhận thức về ô nhiễm không khí. Theo các chuyên gia, để giảm phát thải nguồn gây ô nhiễm, cần nguồn lực đầu tư để cải thiện công nghệ; cởi mở sẵn sàng tiếp cận các công nghệ mới có thể tạo ra các nguồn năng lượng sạch và xanh có giá cả phù hợp để mọi người có thể chấp nhận chi trả. Để dần đạt được mục tiêu giảm phát thải, ứng phó với biến đổi khí hậu, các quốc gia đang phát triển sẽ cần thời gian và sự hỗ trợ từ các nền kinh tế phát triển.
Các chuyên gia cũng nhấn mạnh con số 1,3 nghìn tỷ USD mà các quốc gia đang phát triển sẽ cần cho đến năm 2035 để ứng phó với cuộc khủng hoảng khí hậu. Điều này đòi hỏi cần sự hỗ trợ tài chính nhiều hơn nữa để các quốc gia đang phát triển có cơ hội cải thiện công nghệ, áp dụng các công nghệ mới, phát thải thấp.
Với 3 nguồn gây ô nhiễm không khí chính trong đó có phương tiện giao thông, GS. Hồ Quốc Bằng cho biết một trong những giải pháp đã được nhiều nước thực hiện đó là áp dụng thuế khí thải, thuế ô nhiễm. Hiện nay ở Việt Nam chưa áp dụng các công cụ này. Tuy nhiên, chuyên gia này nêu quan điểm trong thời gian tới, nếu muốn có cơ chế bảo vệ môi trường và bảo vệ sức khỏe người dân tránh tác động bởi ô nhiễm không khí sẽ cần phải có thêm những biện pháp mạnh hơn, trong đó có việc nghiên cứu đánh thuế ô nhiễm.
GS. Daniel Kammen, Đại học California, Berkeley (Mỹ) đánh giá cao vai trò của xe điện; tích hợp sử dụng xe điện với phương tiện giao thông công cộng. Theo GS. Kammen, các quốc gia cần đẩy nhanh hơn nữa việc sản xuất xe điện, cũng như tạo các hành lang pháp lý cho xe điện phát triển, đơn cử như chính sách cho việc xây dựng trạm sạc và tăng cơ hội tiếp cận xe điện cho người có thu nhập không cao. Điều này không chỉ bảo vệ cho tương lai của khí hậu mà còn đảm bảo cho bình đẳng xã hội.
Vũ Hồng