22/12/2025
Tính đến hết quý I/2025, cả nước có 433 khu công nghiệp (KCN) đang hoạt động, bao gồm 369 KCN nằm ngoài các khu kinh tế, 39 KCN nằm trong các khu kinh tế ven biển, 8 KCN thuộc các khu kinh tế cửa khẩu với tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 129,9 nghìn ha và tổng diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 89,2 nghìn ha [8]. Đây là dư địa rất lớn để lồng ghép định hướng phát triển sinh thái vào quy hoạch các khu công nghiệp trong tương lai. Trong bối cảnh tài nguyên ngày càng cạn kiệt, Việt Nam lại là một trong những nước chịu rủi ro nhất do biến đổi khí hậu, việc chuyển đổi các KCN hiện tại sang mô hình sản xuất bền vững hơn như khu công nghiệp sinh thái (KCNST), từ phát triển nhờ tài nguyên sang phát triển dựa vào hiệu quả sản xuất là điều rất cần thiết. Hiện nay quá trình chuyển đổi sang mô hình KCNST đang có nhiều thuận lợi do có nhiều chính sách hỗ trợ của Chính phủ.
1. Khung pháp lý về phát triển khu công nghiệp sinh thái
Khung pháp lý phát triển KCNST tại Việt Nam chủ yếu dựa trên các văn bản pháp luật hiện hành về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế, cùng với các quy hoạch quốc gia và chiến lược phát triển bền vững. Một trong những dấu mốc quan trọng đầu tiên là Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế, trong đó, lần đầu tiên khái niệm KCNST được đưa vào văn bản pháp quy cấp quốc gia. Nghị định này không chỉ thừa nhận tính chính danh của mô hình KCNST mà còn khuyến khích chuyển đổi các KCN hiện hữu sang mô hình sinh thái, cũng như phát triển mới các khu đáp ứng tiêu chí môi trường, cộng sinh công nghiệp và hạ tầng xanh. Dù còn mang tính định hướng sơ khởi, Nghị định số 82/2018/NĐ-CP đã đề cập đến một số nội dung quan trọng như: tiêu chí doanh nghiệp sinh thái, khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo, ưu tiên tiếp cận quỹ môi trường và xác lập cơ chế ưu đãi đối với các doanh nghiệp tham gia KCNST [1]. Tuy nhiên, văn bản này vẫn thiếu các quy định chi tiết về tiêu chí đánh giá, quy trình chứng nhận và trách nhiệm giữa các cấp quản lý dẫn tới khó khăn trong triển khai thực tế ở nhiều địa phương.
Nhằm khắc phục khoảng trống thể chế nêu trên, ngày 28/5/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/2022/NĐ-CP quy định về quản lý KCN và khu kinh tế, thay thế Nghị định số 82/2018/NĐ-CP. Nghị định số 35/2022/NĐ-CP đánh dấu bước hoàn thiện về chính sách, khi cụ thể hóa rõ hệ thống tiêu chí công nhận KCNST, bao gồm cả định nghĩa, yêu cầu tối thiểu về sản xuất sạch hơn, cộng sinh công nghiệp và hạ tầng phục vụ người lao động. Cụ thể, một KCN được công nhận là sinh thái phải có ít nhất 20% doanh nghiệp áp dụng giải pháp sử dụng hiệu quả tài nguyên, thực hiện ít nhất một dự án cộng sinh công nghiệp (với ≥ 10% doanh nghiệp tham gia), dành tối thiểu 25% diện tích cho cây xanh - giao thông - hạ tầng kỹ thuật chung và có cơ chế bảo đảm phúc lợi xã hội trong nội khu. Đặc biệt, Nghị định số 35/2022 làm rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc định hướng và hỗ trợ triển khai các KCNST tại địa phương, đơn giản hóa các điều kiện, tiêu chí và thủ tục khi phân quyền cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc chứng nhận KCN cộng sinh, đồng thời xác lập các cơ chế về thu hồi, gia hạn và đánh giá lại chứng nhận nếu KCN không duy trì được các tiêu chí đã cam kết [2]. Việc lồng ghép các nội dung này vào hệ thống pháp luật giúp tăng tính trách nhiệm của địa phương, đồng thời bảo đảm tính linh hoạt và khả thi trong tổ chức triển khai.
Cùng với đó, ngày 24/1/2025, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư số 05/2025/TT-BKHĐT (có hiệu lực từ ngày 15/3/2025). Đây là văn bản hướng dẫn kỹ thuật chi tiết về xây dựng, vận hành và chứng nhận KCNST, bao gồm: các mẫu biểu báo cáo, quy định về cộng sinh công nghiệp, quản lý dòng tài nguyên, xác định tỷ lệ diện tích cây xanh - giao thông - hạ tầng xã hội cũng như các điều kiện để đề xuất đầu tư mới hoặc chuyển đổi KCN theo hướng sinh thái. Thông tư số 05/2025/TT-BKHĐT còn yêu cầu thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất về hiệu quả sử dụng tài nguyên, cơ chế theo dõi - giám sát - đánh giá định kỳ và công khai thông tin liên quan đến doanh nghiệp sinh thái [3]. Đây là nền tảng kỹ thuật quan trọng giúp minh bạch hóa quá trình chuyển đổi, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai đồng bộ mô hình KCNST trên phạm vi toàn quốc.
Như vậy, bằng việc ban hành loạt văn bản quy phạm pháp luật về quản lý KCN, khu kinh tế, không chỉ khẳng định tính chính danh của mô hình KCNST trong hệ thống pháp luật Việt Nam mà còn thiết lập hành lang pháp lý chi tiết và khả thi cho việc chuyển đổi từ mô hình phát triển công nghiệp truyền thống sang phát triển bền vững và tuần hoàn. Đây là bước tiến quan trọng đưa KCNST từ “ý tưởng thử nghiệm” trở thành một trụ cột trong chiến lược công nghiệp hóa theo hướng xanh - thông minh bao trùm của Việt Nam.
2. Mối liên kết với Chiến lược tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn
Việc phát triển KCNST tại Việt Nam không chỉ là một mô hình thử nghiệm đơn lẻ mà ngày càng được xác lập như một giải pháp chiến lược nhằm cụ thể hóa các mục tiêu phát triển bền vững quốc gia. Trên thực tế, KCNST hiện nay đang gắn bó chặt chẽ với ba định hướng lớn trong chính sách phát triển của Việt Nam.
Một là, thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26 về đưa phát thải ròng khí nhà kính về mức “0” vào năm 2050. KCNST không chỉ là một mô hình nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và nguyên liệu theo nguyên tắc kinh tế tuần hoàn, mà còn là công cụ quan trọng để thực hiện cam kết giảm phát thải và mục tiêu tăng trưởng xanh của quốc gia. Các KCNST, thông qua các giải pháp sản xuất sạch hơn (RECP), sử dụng năng lượng tái tạo và cộng sinh công nghiệp đã chứng minh khả năng giảm phát thải CO₂ đáng kể. Đây là minh chứng rõ nét cho tiềm năng đóng góp của khu công nghiệp sinh thái trong chiến lược trung hòa các-bon của quốc gia.
Hai là, trong Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050, Chính phủ đã nhấn mạnh yêu cầu thúc đẩy sản xuất sạch, tối ưu hóa hiệu quả sử dụng năng lượng, nguyên vật liệu và tích hợp không gian xanh - hạ tầng bền vững vào các khu công nghiệp, khu chế xuất. Mô hình KCNST với bản chất là sự kết hợp giữa giảm phát thải, cộng sinh tài nguyên và nâng cao chất lượng môi trường sống được xác định là một công cụ trọng yếu để thực thi chiến lược này. Nhiều yêu cầu trong khu công nghiệp sinh thái như: tiết kiệm năng lượng, xử lý nước tuần hoàn và kiểm soát chất thải tích cực - phù hợp hoàn toàn với các chỉ tiêu giảm cường độ phát thải và thúc đẩy tăng trưởng xanh mà Việt Nam đã cam kết trong Chiến lược. Một số KCN tại Việt Nam đã tiên phong áp dụng mô hình này và đạt được những kết quả tích cực. Điển hình như KCN Trà Nóc (Cần Thơ) cũng đang phát triển một chuỗi cộng sinh công nghiệp trong ngành chế biến thủy sản. Tại đây, các nhà máy đã liên kết với nhau để thu gom và xử lý bã thải, nước thải, biến chúng thành sản phẩm có giá trị như thức ăn chăn nuôi hoặc phân bón. Cách làm này vừa giúp giảm chi phí xử lý môi trường vừa giúp gia tăng giá trị kinh tế cho từng đơn vị trong chuỗi.
Ba là, Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam được ban hành theo Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 7/6/2022, với nguyên tắc “tái sử dụng - tái chế - phục hồi”, KCNST tạo điều kiện để doanh nghiệp xây dựng chuỗi cộng sinh công nghiệp, chia sẻ nguyên liệu phụ phẩm, năng lượng và hạ tầng dùng chung. Qua đó, giảm thiểu phát thải chất thải rắn và khí thải, đồng thời tăng giá trị sử dụng của tài nguyên đầu vào. Thực tiễn tại các KCN như Nam Cầu Kiền (Hải Phòng) cho thấy, khi thực hiện thành công chuỗi cộng sinh tuần hoàn, các doanh nghiệp không chỉ tiết kiệm chi phí mà còn giảm mạnh lượng rác thải chôn lấp và khí nhà kính phát sinh. Hiện KCN Nam Cầu Kiền có 3 chuỗi cộng sinh theo mô hình kinh tế tuần hoàn, gồm ngành luyện kim-cơ khí; nhựa và các sản phẩm từ nhựa; phụ trợ điện-điện tử. Nhờ có hoạt động kết nối doanh nghiệp cộng sinh này mà các doanh nghiệp trong khu công nghiệp đã thuận lợi trong tìm kiếm nguyên liệu đầu vào và trị trường cho sản phẩm đầu ra. Giải pháp trên cũng được nhiều doanh nghiệp tại KCN Amata (Biên Hoà, Đồng Nai) như Bosch, Nestlé, SMC, Ajinomoto, Schaeffler... thực hiện để gia tăng lợi thế xuất khẩu vào châu Âu, Nhật Bản, Mỹ. Việc thực hiện cộng sinh doanh nghiệp công nghiệp không chỉ hưởng lợi về chất lượng sản phẩm mà còn đáp ứng các cam kết quốc tế về phát thải và môi trường. Qua đó, tăng năng lực cạnh tranh và mở rộng quy mô thị trường.
Mặc dù đã có những bước tiến đáng kể trong việc xây dựng khung pháp lý cho KCNST, tuy nhiên khung pháp lý về KCNST chủ yếu nằm trong các văn bản dưới luật, chưa có luật riêng biệt về KCN để tạo hành lang pháp lý vững chắc, gây ra sự thiếu nhất quán và chưa đủ mạnh để thúc đẩy phát triển KCNST. Vẫn còn các quy định và định hướng đầu tư, phát triển các KCNST được đưa ra, nhưng nằm rải rác trong rất nhiều văn bản pháp quy khác nhau trong các bộ luật liên quan (đất đai, xây dựng, môi trường...), cộng với thủ tục hành chính cần được hoàn thiện hơn nữa mới có thể thúc đẩy nhanh việc phát triển các loại hình KCNST có hiệu quả cao, theo đúng định hướng phát triển xanh và công nghệ cao đặt ra cho giai đoạn phát triển tới. Bên cạnh đó, các hệ thống về quy chuẩn, tiêu chuẩn cho KCNST chưa hoàn thiện. Chẳng hạn, việc lắp đặt hệ thống điện mặt trời áp mái trong KCN là một trong những giải pháp cho KCNST, song chưa có quy định về việc lắp đặt điện mặt trời áp mái tại KCN. Hay quy định pháp lý về việc sử dụng nước tái chế, sử dụng năng lượng mặt trời, năng lượng tái tạo hiện nay chưa rõ ràng. Nhiều KCN vẫn còn băn khoăn về việc doanh nghiệp sẽ được hưởng những lợi ích gì khi chuyển đổi sang KCNST cũng như quy trình, thủ tục, quyền lợi và trách nhiệm cụ thể trong quá trình chuyển đổi… Do đó, Chính phủ cần sớm ban hành Luật KCN riêng biệt để tạo hành lang pháp lý vững chắc, đồng bộ và toàn diện cho sự phát triển của KCNST. Đây là nền tảng quan trọng để xây dựng một ngành công nghiệp hiện đại, thân thiện với môi trường, có năng lực cạnh tranh quốc tế và góp phần vào phát triển bền vững. Trong đó, cần xây dựng khung khổ pháp lý riêng với đầy đủ chương, mục, điều, khoản cụ thể, hoàn thiện hành lang pháp lý áp dụng cho các trường hợp thành lập mới, hoặc áp dụng cho trường hợp chuyển đổi KCN cũ, truyền thống thành KCNST. Khung pháp lý về đầu tư phát triển KCNST phải là một hệ thống các quy định, chính sách và hướng dẫn do Chính phủ hoặc các cơ quan có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh đầu tư phát triển trong lĩnh vực này. Khung pháp lý này giúp đảm bảo tính tuân thủ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, đồng thời duy trì trật tự và ổn định xã hội. Nhìn về tương lai, định hướng đến năm 2030 và tầm nhìn 2050, Việt Nam cần lồng ghép mục tiêu sinh thái trong quy hoạch vùng, quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch đô thị công nghiệp. Mỗi vùng kinh tế lớn (đồng bằng sông Hồng, Đông Nam bộ, đồng bằng sông Cửu Long…) cần có “hạt nhân sinh thái” làm chuẩn mực, gắn kết với năng lượng tái tạo, logistics xanh và trung tâm xử lý chất thải. Hệ thống dữ liệu quy hoạch - môi trường - đầu tư phải được số hóa, phục vụ giám sát và đánh giá vòng đời để tạo lợi thế cạnh tranh bền vững.
Phát triển KCNST tại Việt Nam không chỉ là xu hướng mà còn điều kiện tiên quyết và cơ hội chiến lược cho các chủ đầu tư và nhà đầu tư trong bối cảnh yêu cầu toàn cầu về phát triển bền vững ngày càng gia tăng. Tuy còn nhiều thách thức về chi phí, công nghệ, quy mô, pháp lý, tiềm năng kinh tế - xã hội và môi trường, nhưng mô hình này chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả rất lớn. Với sự hỗ trợ từ Chính phủ, các tổ chức quốc tế, KCNST có thể trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xanh, bền vững của Việt Nam, đồng thời nâng cao vị thế cạnh tranh trên bản đồ đầu tư toàn cầu.
Phạm Hà Bắc
Trường Đại học Luật Hà Nội
(Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 12/2025)
Tài liệu tham khảo
1. Chính phủ (2018). Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 quy định về quản lý KCN và khu kinh tế.
2. Chính phủ (2022). Nghị định số 35/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 quy định về quản lý KCN và khu kinh tế.
3. Bộ KH&ĐT (2025). Thông tư số 05/2025/TT-BKHĐT ngày 14/1/2025 hướng dẫn xây dựng KCNST.
4. Vụ Quản lý các Khu kinh tế, Bộ KH&ĐT (2024). Chuyển đổi sang KCNST để phát triển kinh tế bền vững.
5. UNIDO & World Bank Group. (2017). An international framework for Eco-Industrial Parks. https://www.unido.org/resources/publications.
6. United Nations Industrial Development Organization. (2021). Global Eco-Industrial Parks Programme (GEIPP): Final Report. UNIDO. https://hub.unido.org.
7. UNIDO. (2020). Eco-Industrial Parks Toolbox (EIP Toolset). https://geipp.org/eip-tools.
8. Mai Vũ Duy, Bùi Mạnh Hùng (2025). Khung pháp lý về đầu tư và phát triển KCNST tại Việt Nam, Tạp chí Xây dựng.