18/04/2018
Trong những năm qua, công tác nghiên cứu, điều tra tài nguyên biển nói chung, tài nguyên sinh vật biển nói riêng đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ TN&MT, bảo đảm an ninh quốc phòng, chủ quyền và lợi ích quốc gia trên vùng biển của Việt Nam.
Việt Nam là quốc gia ven biển, có tổng chiều dài bờ biển khoảng 3.260 km, với một vùng biển rộng hơn một triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền. Vùng biển nước ta có hơn 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ; hơn 50% số dân sống ở các tỉnh ven biển. Để phát huy những lợi thế từ biển, nhất là hiệu quả trong khai thác các nguồn lợi từ biển, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 (Khóa X) đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, với mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo; Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng từ 53% - 55% tổng GDP của cả nước; Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện đáng kể đời sống nhân dân vùng biển và ven biển…
Cán bộ Trung tâm quan trắc TN&MT (Sở TN&MT tỉnh Quảng Trị) phân tích chất lượng nước biển (Ảnh: Đăng Tú)
Để đạt được mục tiêu đề ra, công tác điều tra, nghiên cứu biển ở Việt Nam nói chung, nguồn lợi sinh vật biển nói riêng được đặc biệt quan tâm và có những bước tiến khá mạnh cả về số lượng cũng như chất lượng, là cơ sở quan trọng cho việc lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng vùng biển, phát triển nuôi trồng thủy sản, du lịch sinh thái và bảo tồn biển ở các tỉnh, TP ven biển của Việt Nam.
Đánh giá kết quả nghiên cứu về hệ sinh thái biển ở Việt Nam thời gian qua, PGS. TS Đỗ Công Thung (Viện TN&MT biển) cho biết, thông qua các nghiên cứu tổng thể về hệ sinh thái biển, Việt Nam đã xây dựng được hệ thống đặc điểm điều kiện tự nhiên của dải ven biển; Cung cấp khá hoàn chỉnh những quy luật cơ bản về vật lý biển và hóa học biển, phân bố và biến động của các hệ sinh thái cơ bản biển Việt Nam (hệ sinh thái cửa sông, rừng ngập mặn, đầm phá, rạn san hô, thảm cỏ biển, bãi triều lầy ven biển…). Đáng chú ý, tính đến nay, Việt Nam đã điều tra, xác định được danh mục gần 12 nghìn loài sinh vật biển, bao gồm cả động vật và thực vật. Các nghiên cứu đã chứng minh nguồn lợi thủy, hải sản Việt Nam phong phú, đa dạng, bao gồm khoảng hơn 2.000 loài cá, gần 6.000 loài động vật đáy, 653 loài tảo... Trong đó có nhiều loài hải sản có giá trị kinh tế cao như: cá, tôm he, tôm hùm, cua, yến sào, bào ngư, ngọc trai… Ngoài ra, nhiều công trình nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học trong BVMT biển cũng được triển khai như sử dụng các loại sinh vật biển có ích để BVMT cho các vùng biển hẹp; Nuôi ghép các loài hai mảnh vỏ (vẹm xanh) kết hợp với nuôi tôm làm giảm ô nhiễm môi trường do thức ăn dư thừa của tôm... Các nghiên cứu cũng đưa ra những cảnh báo về mức độ suy giảm nguồn lợi ven bờ; các nguy cơ đe dọa tài nguyên sinh vật, hủy hoại các hệ sinh thái biển Việt Nam do sức ép dân số, các hoạt động gây ô nhiễm môi trường, hiện tượng biến đổi khí hậu, tình trạng sử dụng các phương tiện khai thác mang tính hủy diệt…
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, nhà khoa học, công tác nghiên cứu tài nguyên biển nói chung, nghiên cứu tài nguyên sinh vật biển nói riêng ở Việt Nam hiện còn gặp khó khăn, không gian và chủ đề nghiên cứu vẫn chủ yếu tập trung ven bờ. Các công trình nghiên cứu cho những vùng biển sâu, xa còn hạn chế, phần nhiều dựa vào tài liệu khảo sát của nước ngoài, hoặc thực hiện được nhờ các chuyến khảo sát hợp tác quốc tế. Hoạt động nghiên cứu còn thiếu tính chuyên nghiệp, nội dung thiếu chiều sâu và dàn trải, một số đơn vị mới thành lập nghiên cứu về biển, thiếu về phương tiện, chuyên gia và kinh nghiệm. Bên cạnh đó, một số tổ chức, đơn vị không chuyên nhận nhiệm vụ nghiên cứu biển, dẫn đến nhiều công trình nghiên cứu chưa chuyên nghiệp. Ngoài ra, ở Việt Nam, những điều tra cơ bản vẫn còn mang tính chất đơn lẻ và đơn ngành, thiếu các cuộc điều tra tổng hợp theo vùng, miền, trong khi đó mạng lưới quan trắc còn thưa, ít thông số và không liên tục, chưa có cơ sở dữ liệu biển quốc gia để thống nhất trong quản lý và trao đổi dữ liệu với các quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới…
Để khắc phục, Việt Nam cần tiếp tục tập trung điều tra, đánh giá đầy đủ, chính xác trữ lượng nguồn tài nguyên biển, nguồn lợi sinh vật biển, nhất là các giá trị mới của tài nguyên như: Dược liệu biển, hóa phẩm biển; Ưu tiên cho các nghiên cứu, thăm dò và khai thác các nguồn lợi sinh vật vùng biển sâu, xa. Đẩy mạnh nghiên cứu, áp dụng các quy trình tiên tiến, công nghệ hiện đại trong khai thác, sử dụng tài nguyên biển hiệu quả, bảo đảm phát triển bền vững; Xây dựng và hoàn thiện công nghệ, quy trình xử lý môi trường, ứng phó sự cố môi trường, nhằm giảm thấp nhất các tác hại làm ảnh hưởng nguồn tài nguyên sinh vật biển. Tiếp tục xây dựng các khu bảo tồn biển, mô hình phục hồi hệ sinh thái, bảo vệ nguồn lợi đa dạng sinh học biển, phục vụ nghiên cứu khoa học và phát triển kinh tế tại các địa phương ven biển.
Nhật Minh (Theo nhandan.com.vn)