24/01/2025
Theo Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2023 với chủ đề “Môi trường nông thôn - Thực trạng và giải pháp” do Bộ TN&MT công bố ngày 8/1/2025, chất lượng môi trường không khí ở khu vực nông thôn cũng có sự phân hóa theo vùng miền. Giá trị các chất ô nhiễm trong môi trường không khí ở các địa phương phía bắc thường cao hơn so với các địa phương khu vực miền trung-Tây Nguyên và miền nam.
Tại vùng nông thôn miền Bắc (thường ở khu vực ven đô hay các khu vực làng nghề, khu vực có hoạt động sản xuất công nghiệp phát triển…), đã ghi nhận có những đợt chất lượng không khí bị suy giảm xuống mức nghiêm trọng, giá trị thông số PM2.5 tăng cao, có trạm ghi nhận giá trị bụi PM2.5 vượt 3,5 lần giá trị giới hạn của QCVN 05:2013/BTNMT. Nguồn gây ô nhiễm không khí chủ yếu vẫn là do bụi mịn; các thông số khác như SO2, NO2, CO có kết quả quan trắc tự động, liên tục, định kỳ cho giá trị trung bình 1 giờ và trung bình năm thấp, chưa vượt giá trị giới hạn của QCVN 05:2023/BTNMT.
Tại các làng nghề, thành phần và nồng độ các chất gây ô nhiễm phụ thuộc vào loại hình sản xuất. Ô nhiễm mùi tập trung tại các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, giết mổ; ô nhiễm bụi phổ biến tại các làng nghề gốm sứ, chế tác đá, đồ gỗ mỹ nghệ; trong khi ô nhiễm khí độc hại thường tập trung nhiều ở các làng nghề tái chế. Kết quả quan trắc tại một số làng nghề ở Thành phố Hải Phòng, các tỉnh Bắc Ninh, Ninh Bình và Tiền Giang năm 2022 cho thấy giá trị thông số TSP (tổng số bụi lơ lửng) cao, vượt giá trị giới hạn của QCVN 05:2013/BTNMT (trung bình 1 giờ), có khu vực vượt xấp xỉ 2 lần. Riêng tại trạm Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh (gần làng nghề đúc nhôm Mẫn Xá), giá trị thông số bụi PM10 và PM2.5 trung bình năm liên tiếp từ 2020 đến nay đều vượt giá trị giới hạn của QCVN 05:2013/BTNMT. Trong năm 2021, có xấp xỉ 60%, đến tháng 10/2023 có gần 50% số ngày ghi nhận giá trị thông số bụi PM2,5 vượt giá trị giới hạn trung bình 24 giờ của QCVN 05:2023/BTNMT.
Làng nghề tái chế nhôm Mẫn Xá (xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh) chìm trong khói bụi
Bên cạnh đó, xu hướng chuyển dịch các khu công nghiệp, cụm công nghiệp về khu vực giáp ranh đô thị, các vùng ngoại thành đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường không khí ở các vùng nông thôn lân cận. Một vài khu vực đã có dấu hiệu ô nhiễm cục bộ với nồng độ chất ô nhiễm ở mức cao, một số nơi đã vượt giá trị giới hạn. Kết quả giám sát chất lượng môi trường không khí tại gần khu công nghiệp Tằng Loỏng, tỉnh Lào Cai ghi nhận giá trị thông số bụi PM2.5 trung bình năm liên tiếp từ 2021 đến nay đều vượt giá trị giới hạn của QCVN 05:2013/BTNMT, thông số bụi PM10 xấp xỉ vượt giá trị giới hạn.
Cũng theo Bộ TN&MT, hiện nay, ô nhiễm không khí cục bộ gần các khu vực khai thác khoáng sản, vật liệu xây dựng vẫn tiếp diễn. Các lĩnh vực sản xuất vật liệu, năng lượng đã đầu tư các công nghệ mới, thiết bị mới, điển hình như công nghệ sản xuất vật liệu không nung, công nghệ có hiệu suất chuyển đổi năng lượng cao, phát thải thấp tại các nhà máy nhiệt điện than… do đó, phát thải bụi, SO2 và NOx ra môi trường đã phần nào được kiểm soát. Tuy nhiên, kết quả giám sát tại một số khu vực vẫn tiếp tục ghi nhận dấu hiệu ô nhiễm không khí cục bộ. Điển hình tại khu vực khai thác, khu vực chế biến khoáng sản, vật liệu xây dựng ở các tỉnh Lào Cai, Phú Thọ, Đà Nẵng, Vĩnh Long, giá trị thông số TSP vượt giá trị giới hạn trung bình 1 giờ của QCVN 05:2013/BTNMT từ 1,2 - 2,2 lần. Tại khu vực gần hoạt động khai thác, vận chuyển khoáng sản như khu vực Đông Tân, tỉnh Lạng Sơn, gần khu vực khai thác, vận chuyển đá cũng đã ghi nhận giá trị các thông số bụi cao, tỷ lệ số ngày trong năm có giá trị thông số bụi PM10 và PM2.5 vượt giá trị giới hạn của QCVN 05:2023/BTNMT cao hơn so với các khu vực khác.
Tại Việt Nam, khu vực nông thôn là nơi sinh sống của hơn 60% dân số cả nước, đóng vai trò chiến lược đối với phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu của quốc gia. Đời sống văn hóa tinh thần và kinh tế của người dân nông thôn có nhiều chuyển biến tích cực; dân trí được nâng cao. Đặc biệt, sau hơn 13 năm triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, không chỉ hạ tầng giao thông, kinh tế mà cả hạ tầng văn hóa, xã hội đã được cải thiện, ý thức và nhận thức của cư dân nông thôn về giữ gìn môi trường sinh thái và môi trường xã hội cũng được nâng cao. Bên cạnh sự phát triển kinh tế - xã hội mạnh mẽ là những nguy cơ không nhỏ về ô nhiễm môi trường ở khu vực nông thôn. Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2023 được xây dựng dựa trên mô hình D-P-S-I-R (Driving Forces/Động lực - Pressure/Áp lực - State/Hiện trạng - Impact/Tác động - Response/Đáp ứng). Trong đó, động lực là các điều kiện tự nhiên cũng như kinh tế - xã hội như sự gia tăng dân số, phát triển nông thôn và các ngành kinh tế nông thôn. Các vấn đề này đã và đang gây ảnh hưởng đến môi trường nông thôn; tạo ra áp lực rất lớn làm thay đổi hiện trạng môi trường. Hiện trạng môi trường nông thôn được đánh giá thông qua các thông số chất lượng môi trường không khí, nước, đất... Báo cáo gồm 6 Chương: Chương I. Tổng quan về kinh tế - xã hội khu vực nông thôn; Chương II. Các nguồn gây ô nhiễm môi trường nông thôn; Chương III. Hiện trạng môi trường nông thôn; Chương IV. Tác động của ô nhiễm môi trường nông thôn; Chương V. Công tác quản lý và bảo vệ môi trường nông thôn; Chương VI. Những tồn tại, hạn chế và giải pháp tăng cường hiệu quả công tác bảo vệ môi trường nông thôn và 109 biểu đồ, 19 bảng kèm theo. Đây là nguồn tài liệu quan trọng, thiết thực để các cơ quan quản lý ở Trung ương, các địa phương và các nhà khoa học tham khảo trong công tác nghiên cứu, hoạch định, xây dựng, thực hiện chính sách liên quan đến hoạt động bảo vệ môi trường nông thôn, trong đó có vấn đề cải thiện chất lượng môi trường không khí. |
Nam Hưng