Banner trang chủ
Thứ Ba, ngày 16/09/2025

Kết quả xử lý, tiêu thụ tro xỉ, thạch cao tại Nhà máy Nhiệt điện than của Tập đoàn Điện lực Việt Nam và giải pháp, kiến nghị

15/09/2025

    LTS: Với sự chỉ đạo kịp thời của các cơ quan quản lý từ cấp Trung ương đến địa phương và sự nỗ lực không ngừng của các doanh nghiệp, hiện nay việc xử lý, tiêu thụ tro, xỉ, thạch cao của các doanh nghiệp đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Cụ thể, về cơ bản các doanh nghiệp đã tiêu thụ hoàn toàn lượng tro, xỉ, thạch cao phát sinh hàng ngày và giải phóng một phần lượng tro, xỉ, thạch cao tại bãi chứa. Tuy nhiên, vẫn còn có những nguyên nhân khách quan khác nhau nên các doanh nghiệp vẫn chưa giải phóng được lượng tro, xỉ, thạch cao tại bãi chứa đảm bảo đáp ứng lượng tồn trữ tại bãi chứa của các nhà máy nhiệt điện, nhà máy hóa chất, phân bón nhỏ hơn tổng lượng phát thải của 2 năm sản xuất.

    Tạp chí Môi trường xin giới thiệu bài viết của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) về hiện trạng và những khó khăn mà doanh nghiệp đang vướng mắc, từ đó đề ra phương hướng tháo gỡ về mặt cơ chế, chính sách chế độ hỗ trợ tiêu thụ tro, xỉ để kết nối, tạo thị trường tiêu thụ bền vững giúp các doanh nghiệp nói chung và EVN nói riêng.

Ông Nguyễn Anh Tuấn, Tổng Giám đốc EVN phát biểu tham luận tại Hội thảo Hoàn thiện quy chuẩn,

tiêu chuẩn kỹ thuật và đơn giá, định mức kinh tế - kỹ thuật trong lĩnh vực môi trường 

    1. HIỆN TRẠNG NHÀ MÁY NHIỆT ĐIỆN THAN TRONG HỆ THỐNG ĐIỆN VIỆT NAM

    Tính đến tháng 8/2025, tổng công suất nguồn điện (đã COD) toàn hệ thống là 87.655 MW, trong đó các nguồn điện do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và 3 Tổng Công ty Phát điện thuộc EVN sở hữu chiếm 35,5% công suất đặt của hệ thống. Quy mô hệ thống điện Việt Nam đứng đầu khu vực ASEAN về công suất nguồn điện.

    Hiện nay, cơ cấu nguồn điện trong hệ thống điện (HTĐ) Việt Nam rất đa dạng, bao gồm: thủy điện, nhiệt điện đốt than, nhiệt điện đốt dầu, khí, và các nguồn năng lượng tái tạo (điện mặt trời, điện gió).

    Trong thời gian qua, cơ cấu nguồn điện đã có những thay đổi đáng kể. Tỷ trọng năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời và điện gió, tăng mạnh; trong khi đó, tỷ trọng nhiệt điện than vẫn giữ vai trò lớn nhưng có xu hướng giảm dần.

    Tính đến tháng 8/2025, tổng công suất nhiệt điện than là khoảng 28.227 MW chiếm khoảng 32% tổng công suất của toàn hệ thống. Trong đó các nhà máy nhiệt điện than (NMNĐ) thuộc EVN có tổng công suất khoảng 12.672 MW, tương ứng 14,5% tổng công suất của toàn hệ thống. Danh sách các NMNĐ than của EVN và các đơn vị trực thuộc như trong bảng sau:

    Bảng 1: Danh sách các NMNĐ than của EVN và các đơn vị trực thuộc

Tên nhà máy

Công suất (MW)

Năm vận hành

Khu vực

Quản lý vận hành

NMNĐ sử dụng than anthracite (nội địa và/hoặc trộn nhập khẩu)

Uông Bí MR1

300

2009

miền Bắc

GENCO1

Uông Bí MR2

330

2013

Nghi Sơn 1

600

2015

Quảng Ninh 1

600

2011

Quảng Ninh 2

600

 Duyên Hải 1

1245

2016

miền Nam

Phả Lại 1

440 

1983

miền Bắc

GENCO2

Phả Lại 2

600

2001 

Hải Phòng 1

600

2011

Hải Phòng 2

600

2014

Mông Dương 1

1080

2014

miền Bắc

GENCO3

Ninh Bình

100

1974

Vĩnh Tân 2

1244

2014

miền Nam

Thái Bình 1

600

2017

miền Bắc

EVN

NMNĐ sử dụng than bitum và sub-bitum (nhập khẩu)

 Duyên Hải 3

1245

2017

miền Nam

GENCO1

Duyên Hải 3MR

688

2020

miền Nam

EVN

 Vĩnh Tân 4

1200

2018

Vĩnh Tân 4 MR

600

2019

Quảng Trạch I

1403

2025

miền Trung

EVN

    Các NMNĐ than của EVN trải dài trên 3 miền Bắc - Trung - Nam. Đối với Khu vực miền Nam có 2 Trung tâm điện lực (TTĐL) là Duyên Hải và Vĩnh Tân với đặc điểm là các tổ máy có công suất lớn và tập trung nhiều nhà máy trong cùng một khu vực.

    Cùng với xu thế phát triển công nghệ nhiệt điện trên thế giới, các NMNĐ thuộc EVN đã và đang từng bước đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng sơ cấp. Nhiều nhà máy nhiệt điện than của EVN hiện nay áp dụng công nghệ hiện đại, có trình độ không thua kém các cơ sở cùng loại trong khu vực và trên thế giới, đồng thời đáp ứng tốt các yêu cầu về bảo vệ môi trường

    Đáng chú ý, một số nhà máy đã ứng dụng công nghệ siêu tới hạn (SC), công nghệ giảm phát thải ra môi trường như Vĩnh Tân 4, Vĩnh Tân 4 Mở Rộng (MR), Duyên Hải 3 MR. Đặc biệt, đến Quý IV/2025, NMNĐ Quảng Trạch I với công nghệ trên siêu tới hạn (USC) sẽ chính thức được đưa vào vận hành.

    2.  KẾT QUẢ TIÊU THỤ TRO XỈ TẠI CÁC NMNĐ THAN CỦA EVN 

    Tình hình sử dụng nhiên liệu và khối lượng tro xỉ tại các NMNĐ than

    Tất cả các NMNĐ đốt than của EVN sử dụng than antraxit nội địa hoặc than trộn nhập khẩu, được cung cấp chủ yếu từ Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) và Tổng Công ty Đông Bắc, đảm bảo tiêu chuẩn theo TCVN 8910:2020. Đối với các nhà máy sử dụng than nhập khẩu như NMNĐ Duyên Hải 3, Duyên Hải 3 Mở rộng (3MR), Vĩnh Tân 4 và Vĩnh Tân 4 Mở rộng (4MR), nhiên liệu chính là than bituminos và sub-bituminos.

    Trung bình hằng năm, tổng lượng than tiêu thụ tại các NMNĐ than của EVN đạt khoảng 35 - 40 triệu tấn, đồng thời phát sinh từ 7 - 10 triệu tấn tro xỉ (chưa tính đến một lượng nhỏ thạch cao phát sinh tại một số nhà máy sử dụng công nghệ khử SO₂ bằng đá vôi thay cho công nghệ nước biển).

    Đối với các NMNĐ sử dụng than antraxit, chủ yếu là các loại than cám 5a, 5b và 6a, có độ tro trung bình từ 29% đến 37,5%. Trong đó, tro bay chiếm khoảng 70–80% và xỉ đáy lò chiếm 20 - 30%. Ví dụ, tại NMNĐ Vĩnh Tân 2 (công suất 1.244 MW với 2 tổ máy), mỗi năm tiêu thụ khoảng 3,8 triệu tấn than và phát sinh khoảng 1,4 triệu tấn tro xỉ, trong đó 1,12 triệu tấn là tro bay và 0,28 triệu tấn là xỉ đáy lò.

    Đối với các NMNĐ sử dụng than nhập khẩu (bituminos và sub-bituminos), độ tro trung bình thấp hơn, khoảng 6-7%. Trong đó, tro bay chiếm 80- 85% và xỉ đáy lò chiếm 15-20%. Chẳng hạn, tại NMNĐ Vĩnh Tân 4 (công suất 1.200 MW với 2 tổ máy), mỗi năm tiêu thụ khoảng 3,8 triệu tấn than, phát sinh khoảng 300.000 tấn tro xỉ, gồm 255.000 tấn tro bay và 45.000 tấn xỉ đáy lò.

    Kết quả thực hiện tiêu thụ tro xỉ của các NMNĐ than

    Trong những năm qua, EVN và các đơn vị thành viên đã nỗ lực triển khai đồng bộ nhiều giải pháp xử lý, tiêu thụ tro xỉ và đạt được những kết quả rõ rệt. Tỷ lệ tiêu thụ tăng đều qua từng năm, từ mức 33% năm 2015 lên trên 100% kể từ năm 2022 đến nay (bao gồm cả việc tiêu thụ khối lượng tro xỉ tồn lưu tại bãi chứa).

    Trong 8 tháng đầu năm 2025, tổng khối lượng tro, xỉ phát sinh là 4,57 triệu tấn, trong đó có 3,77 triệu tấn tro bay, 0,76 triệu tấn xỉ đáy lò và 43,7 nghìn tấn thạch cao. Lượng tiêu thụ đạt 5,31 triệu tấn, tương đương 116% khối lượng phát sinh, cao hơn mức tiêu thụ trung bình của năm 2024 (112%).

Hình 1. Tỷ lệ tiêu thụ tro, xỉ phát sinh tại NMNĐ

    Năm 2022, một số đơn vị như NMNĐ Quảng Ninh, Hải Phòng, Mông Dương 1 đã đẩy mạnh công tác tiêu thụ tro xỉ làm vật liệu san lấp trong các công trình/dự án của địa phương (đặc biệt NMNĐ Hải Phòng đã tiêu thụ hết toàn bộ khối lượng tro xỉ tồn trữ trên bãi), Vĩnh Tân 2 đã tiêu thụ 0,4-0,5 triệu tấn tro xỉ làm vật liệu san lấp khu vực Hang Cò tỉnh Bình Thuận (nay là tỉnh Lâm Đồng).

    Trong những năm qua, một số đơn vị khu vực phía Bắc đã thực hiện tốt công tác tiêu thụ tro xỉ. Không chỉ xử lý hết khối lượng phát sinh hằng năm, các đơn vị này còn tiêu thụ thêm lượng tro xỉ tồn lưu tại bãi chứa, nâng tỷ lệ tiêu thụ vượt 100%. Tiêu biểu là NMNĐ Quảng Ninh (150-160%), Hải Phòng (110-120%), Mông Dương 1 (~120%) và Nghi Sơn 1 (110-115%). Nhờ đó, khối lượng tro xỉ lưu trữ tại bãi chứa của toàn EVN giảm dần qua từng năm.

    Tại khu vực phía Nam, trong hai năm gần đây, tỷ lệ tiêu thụ đã đạt gần 100% khối lượng phát sinh. Tuy nhiên, quá trình tiêu thụ vẫn gặp khó khăn do khoảng cách vận chuyển xa giữa các nhà máy và trung tâm tiêu thụ, cùng với việc sử dụng tro xỉ làm vật liệu san lấp chưa được đẩy mạnh.

    Tính đến cuối tháng 8/2025, tổng khối lượng tro xỉ của EVN đã được tiêu thụ cộng dồn trong giai đoạn 2018-2025 đạt khoảng 56,01 triệu tấn, chiếm 92,7% trên tổng phát sinh 60,39 triệu tấn. Đáng chú ý, từ năm 2022, tỷ lệ tiêu thụ tro xỉ của EVN duy trì ổn định ở mức trên 100%, phù hợp với chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 452/QĐ-TTg ngày 12/4/2017 và Chỉ thị số 08/CT-TTg ngày 26/3/2021 về việc đẩy mạnh xử lý, sử dụng tro xỉ, thạch cao trong sản xuất vật liệu xây dựng và các công trình xây dựng.

    Hiện nay, tro xỉ nhiệt điện của EVN được tái sử dụng chủ yếu cho các mục đích: làm phụ gia khoáng cho sản xuất clinker xi măng và bê tông, sản xuất gạch không nung, vật liệu san lấp nền móng công trình và nền đường giao thông.

    Tro xỉ còn tồn trữ tại bãi chứa của các NMNĐ than

    Tính đến cuối tháng 8/2025, tổng khối lượng tro xỉ còn lưu tại bãi chứa của các nhà máy nhiệt điện than thuộc EVN khoảng 16,35 triệu tấn, giảm 18,5% so với năm 2020 (tương đương 3,68 triệu tấn).

    Nhiều nhà máy đã tiêu thụ hầu hết lượng tro xỉ phát sinh và tồn trữ, tiêu biểu như: Hải Phòng, Phả Lại, Ninh Bình, Thái Bình và Uông Bí. Một số nhà máy khác cũng đạt tiến bộ đáng kể trong công tác xử lý và tiêu thụ, điển hình là Quảng Ninh, Mông Dương 1 và Nghi Sơn 1.

    Bảng 2: Khối lượng tro xỉ lưu bãi lũy kế của từng khu vực đến cuối tháng 8/2025

STT

Khu vực

Tên NMNĐ

Tổng khối lượng tồn trữ (Triệu tấn)

tại thời điểm 31/12/2020

Tổng khối lượng tồn trữ (Triệu tấn)

lũy kế tính đến T8/2025

1

Quảng Ninh

Quảng Ninh

6,93

3,46

Mông Dương 1

Uông Bí

2

Hưng Yên

Thái Bình

0.19

0,15

3

Hải Phòng

Hải Phòng

0.56

0,47

Phả Lại

4

Ninh Bình

Ninh Bình

0,01

0,01

5

Thanh Hóa

Nghi Sơn 1

1,11

0,87

6

Lâm Đồng

Vĩnh Tân 2

7,16

7,66

Vĩnh Tân 4

7

Vĩnh Long

Duyên Hải 1

3.49

3,74

Duyên Hải 3

Duyên Hải 3MR

 

Tổng

20,02

16,35

    Nhìn chung, giai đoạn 2020-2025, công tác tiêu thụ tro xỉ của EVN đã có nhiều chuyển biến tích cực và đạt kết quả đáng ghi nhận. EVN không chỉ hoàn thành mục tiêu năm 2025 là tiêu thụ 100% lượng tro xỉ phát sinh mà còn từng bước giảm tồn lưu, đưa tổng khối lượng tro xỉ trên các bãi chứa xuống thấp hơn mức phát sinh trung bình của hai năm sản xuất (tổng lượng tro xỉ trên các bãi chứa đã thấp hơn so với tổng lượng phát sinh trung bình 2 năm sản xuất).

    3. GIẢI PHÁP TRIỂN KHAI THỰC HIỆN

    Về cơ chế, chính sách

    Kết quả tiêu thụ tro xỉ nhiệt điện của EVN đạt nhiều chuyển biến tích cực, với tỷ lệ vượt trên 100% trong thời gian gần đây, có được nhờ Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương đã kịp thời ban hành cơ chế, chính sách, quy định pháp luật và văn bản hướng dẫn tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tiêu thụ. Một số nội dung nổi bật như: Quyết định số 452/QĐ-TTg ngày 12/4/2017 và Chỉ thị số 08/CT-TTg ngày 26/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ được coi là “kim chỉ nam” trong công tác xử lý, sử dụng tro xỉ, thạch cao từ các nhà máy nhiệt điện, hóa chất, phân bón làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng và cho công trình xây dựng. Bên cạnh đó, Bộ Công Thương đã có Báo cáo và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ ban hành Văn bản số 523/TTg-CN ngày 20/4/2018 nhằm tháo gỡ vướng mắc trong thực hiện Quyết định số 452/QĐ-TTg; đồng thời ban hành Quyết định số 2056/QĐ-BCT ngày 14/6/2018 về mẫu Đề án xử lý, tiêu thụ tro xỉ, thạch cao. Trên cơ sở đó, tất cả các NMNĐ thuộc EVN đã lập và phê duyệt Đề án xử lý, tiêu thụ tro xỉ, thạch cao.

    Bộ Xây dựng phối hợp cùng các Bộ, ngành xây dựng và ban hành cơ bản đầy đủ hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn, hướng dẫn kỹ thuật, định mức kinh tế - kỹ thuật về xử lý, sử dụng tro xỉ, thạch cao làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng và cho công trình xây dựng. Điều này tạo điều kiện thuận lợi để tro xỉ nhiệt điện của EVN được tiêu thụ và tái sử dụng trong lĩnh vực xây dựng. Văn bản số 7020/BGTVT-KHCN của Bộ Giao thông vận tải (nay là Bộ Xây dựng) ngày 19/7/2021, chỉ đạo các chủ đầu tư, cơ quan thực hiện dự án và Sở GTVT các tỉnh, thành phố ưu tiên sử dụng tro, xỉ nhiệt điện trong xây dựng công trình giao thông, trực tiếp hoặc sau khi gia cố với chất kết dính, làm vật liệu đắp nền.

    Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) trong giai đoạn 2017-2018, nhiều đơn vị EVN gặp khó khăn khi phân định, phân loại tro xỉ theo Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT, do được xác định có khả năng là chất thải nguy hại. Bộ TN&MT đã ban hành Văn bản số 6109/BTNMT-TCMT ngày 05/11/2018, quy định việc phân định CTNH chỉ phải tiến hành một lần (trừ khi có thay đổi về nguyên liệu, quy trình…), qua đó giảm chi phí phân tích và tháo gỡ vướng mắc cho các đối tác tiêu thụ. Bộ tham mưu, trình Chính phủ đã ban hành Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022, trong đó Khoản 3, Điều 65 quy định tro, xỉ, thạch cao là chất thải rắn công nghiệp thông thường và có thể được quản lý như sản phẩm hàng hóa khi đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn sử dụng làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng, san lấp. Đồng thời, Bộ đã ban hành Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT ngày 10/01/2022, khẳng định tro bay và xỉ đáy lò từ NMNĐ là chất thải rắn công nghiệp thông thường, thay vì áp dụng kiểm soát ngưỡng nguy hại như trước (Thông tư 36/2015/TT-BTNMT). Quy định này đã tạo thuận lợi lớn trong việc tiêu thụ tro xỉ.

    Bên cạnh đó, nhiều tỉnh/thành phố đã ủng hộ, tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích doanh nghiệp, đồng thời chỉ đạo các dự án sử dụng vốn ngân sách ưu tiên dùng tro xỉ, thạch cao làm vật liệu xây dựng. Song song, các địa phương cũng tăng cường tuyên truyền để doanh nghiệp sản xuất vật liệu nghiên cứu, ứng dụng tro xỉ. Nhờ đó, nhiều NMNĐ của EVN tại Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình (nay thuộc Hưng Yên), Thanh Hóa đã đạt tỷ lệ tiêu thụ cao trong nhiều năm qua.

    Về quản lý, quản trị của EVN

    Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Công Thương, nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ tro xỉ tại các NMNĐ trong toàn Tập đoàn theo hướng thống nhất, dài hạn và bền vững, EVN đã ban hành một số văn bản quan trọng, bao gồm: (i) văn bản số 5767/EVN-KTSX ngày 09/11/2018 về việc triển khai hồ sơ mời xử lý tro xỉ tại các NMNĐ; (ii) văn bản số 405/EVN-KTSX ngày 24/01/2019 về mẫu Đề án xử lý, tiêu thụ tro xỉ, thạch cao tại các NMNĐ.

    Bên cạnh đó, Tổng Giám đốc EVN cũng đã ban hành: (i) Chỉ thị số 2915/CT-EVN ngày 06/6/2019 về việc xử lý, tiêu thụ tro xỉ tại các NMNĐ; (ii) văn bản số 1931/EVN-KTSX ngày 15/4/2022 về việc đẩy mạnh xử lý, tiêu thụ tro xỉ tại các NMNĐ than của EVN.

    Theo các văn bản chỉ đạo này, EVN đặt mục tiêu đến năm 2025 tiêu thụ 100% lượng tro xỉ phát sinh, giải phóng tối thiểu 50% khối lượng tro xỉ lưu bãi; và đến năm 2030 xử lý, tiêu thụ toàn bộ lượng tro xỉ tồn lưu tại tất cả các NMNĐ.

    Các giải pháp về kỹ thuật

    (1) Đảm bảo chất lượng tro xỉ

    Chất lượng tro xỉ đạt chuẩn là yếu tố cốt lõi để tiêu thụ hết khối lượng phát sinh tại các NMNĐ. Do đó, các đơn vị cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:

    - Kiểm soát chặt chẽ chất lượng nhiên liệu than đầu vào, đảm bảo nằm trong dải thiết kế, đồng đều và tối ưu cho quá trình vận hành.

    - Duy trì chế độ vận hành lò, máy tối ưu, tin cậy và ổn định, đáp ứng yêu cầu của Đề án nâng cao độ tin cậy và hiệu suất vận hành các NMNĐ than của EVN.

    - Áp dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm duy trì, giảm thiểu hàm lượng than chưa cháy hết (UBC - unburned Carbon) xuống dưới 8% đối với than anthracite và dưới 6% đối với than bituminos và sub-bituminos.

    (2) Đảm bảo cơ sở hạ tầng

    Hệ thống hạ tầng giao thông nội bộ trong khuôn viên nhà máy và khu vực bãi chứa phải được duy trì thuận tiện cho việc tiếp nhận, vận chuyển tro xỉ; tuyệt đối không để xảy ra hiện tượng rơi vãi, phát tán bụi hoặc rò rỉ nước thải ra môi trường.

    Một số đơn vị đã chủ động nghiên cứu, xây dựng hệ thống đường ống kín để xuất tro xỉ ra cảng nội bộ, phục vụ vận chuyển bằng đường biển. Đồng thời, phối hợp cùng các đối tác tiêu thụ để đầu tư, xây dựng dây chuyền xử lý và tiêu thụ tro xỉ trực tiếp trong phạm vi nhà máy. Điển hình như tại TTĐL Vĩnh Tân, Công ty Nhiệt điện Vĩnh Tân 2 đã hỗ trợ Công ty Cổ phần Sông Đà Cao Cường xây dựng Nhà máy/cơ sở dây chuyền xử lý tro xỉ với công suất khoảng 500.000 m3/năm.

    Các giải pháp về thương mại

    - Lựa chọn đối tác tiêu thụ tro xỉ: Các đơn vị NMNĐ ưu tiên lựa chọn đối tác có năng lực, giải pháp khả thi và kế hoạch tiêu thụ dài hạn; đặc biệt là các đối tác đầu tư cơ sở xử lý, tái sử dụng tro xỉ. Các đối tác phải có cam kết ràng buộc bằng ký quỹ, đồng thời áp dụng cơ chế thưởng - phạt rõ ràng. Song song, các đơn vị cũng chủ động tìm kiếm thị trường mới để mở rộng mạng lưới tiêu thụ.

    - Cam kết của đơn vị với đối tác: Các NMNĐ cam kết thực hiện nghiêm túc định hướng và tiêu chí lựa chọn đối tác; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi tối đa trong phạm vi cho phép để hỗ trợ tiếp nhận, vận chuyển và tiêu thụ tro xỉ.

    - Hỗ trợ chi phí vận chuyển, xử lý: Để tăng khả năng thu hút đối tác, nhiều đơn vị NMNĐ đã chủ động hỗ trợ thêm chi phí vận chuyển và xử lý tro xỉ, đặc biệt đối với các nhà máy ở xa khu vực tiêu thụ, điển hình như các NMNĐ thuộc Trung tâm Điện lực Vĩnh Tân.

Xuất tro, xỉ tại cảng dầu Công ty Nhiệt điện Vĩnh Tân

    4. MỘT SỐ KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC 

    Hiện nay, hầu hết các NMNĐ than của EVN đã tiêu thụ được 100% lượng tro xỉ phát sinh và từng bước giảm dần khối lượng tồn đọng tại bãi chứa. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc như sau:

    Công tác tiêu thụ tro xỉ tại một số địa phương còn hạn chế

    Mặc dù tro xỉ của các NMNĐ Vĩnh Tân 2, Vĩnh Tân 4 và Vĩnh Tân 4 Mở rộng đã được hợp chuẩn, hợp quy, đồng thời được các chuyên gia và nhà khoa học đánh giá có chất lượng tốt, phù hợp để sản xuất vật liệu xây dựng, phụ gia khoáng cho xi măng, bê tông hay gạch không nung, nhưng nhu cầu tiêu thụ tại địa phương còn thấp.

    Nguyên nhân chính là thói quen sử dụng vật liệu xây truyền thống của người dân chưa thay đổi, trong khi giá vật liệu xây không nung chưa có lợi thế cạnh tranh. Ngoài ra, tro từ các NMNĐ sử dụng than bituminos và sub-bituminos nhập khẩu có màu vàng, khi trộn vào xi măng làm thay đổi màu sắc (dù chất lượng không đổi), dẫn đến ít được ưa chuộng.

    Trên thực tế, tro xỉ từ các nhà máy của EVN đã được kiểm soát chất lượng tốt, đáp ứng TCVN để sử dụng làm vật liệu san lấp. Một số địa phương như Quảng Ninh đã sử dụng tro xỉ san lấp và đạt hiệu quả rõ rệt. Tuy nhiên, tại các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận (nay là Lâm Đồng, Khánh Hòa), dù nhu cầu san lấp lớn nhưng lượng tro xỉ được sử dụng cho mục đích này vẫn rất hạn chế.

    Tro xỉ nhiệt điện chưa sử dụng làm vật liệu đắp nền đường giao thông

    Nhu cầu vật liệu nền đường cho các dự án cao tốc Bắc - Nam rất lớn, riêng đoạn qua Ninh Thuận, Bình Thuận (cũ) thiếu khoảng 5,3 triệu m³ (giai đoạn 1). Bộ GTVT đã có Văn bản số 7020/BGTVT-KHCN ngày 19/7/2021 chỉ đạo các Ban QLDA nghiên cứu, lựa chọn hạng mục phù hợp để sử dụng tro xỉ. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có dự án nào áp dụng tro xỉ từ các NMNĐ của EVN cho nền đường giao thông, do thiếu các quy định cụ thể về định mức, đơn giá, hướng dẫn thi công và nghiệm thu công trình.

    Chi phí vận chuyển cao

    Các NMNĐ tại Trung tâm Điện lực Vĩnh Tân nằm xa các khu vực có nhu cầu tiêu thụ lớn (như TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai,…). Chi phí vận chuyển cao làm tăng giá thành, khiến việc tiêu thụ tro xỉ tại đây kém hấp dẫn về mặt kinh tế -kỹ thuật, dẫn đến khó khăn trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ.

    5. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ

    Để kết nối, tạo thị trường tiêu thụ bền vững giúp các doanh nghiệp nói chung và tại các NMNĐ của EVN nói riêng, Tập đoàn có một số kiến nghị sau:

    (1) Quốc hội: Chỉ đạo Chính phủ, các Bộ, Ban, ngành liên quan, đặc biệt là Bộ Xây dựng và Ủy ban nhân dân các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa xem xét, xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích tái sử dụng tro xỉ trong sản xuất gạch không nung, vật liệu san lấp, làm nền đường và phục vụ xuất khẩu.

    (2) Thủ tướng Chính phủ: Xem xét, phê duyệt cơ chế ưu đãi trong hoạt động tái sử dụng tro xỉ, nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa tỷ lệ tiêu thụ tại các NMNĐ than trên cả nước. Chỉ đạo các cơ quan quản lý nhà nước liên quan ban hành cơ chế đối với các chủ đầu tư dự án giao thông, công trình xây dựng, yêu cầu tiếp nhận và sử dụng tro xỉ nhiệt điện làm vật liệu san lấp, nền đường cao tốc, tương tự kinh nghiệm của nhiều quốc gia tiên tiến.

    Quy định tỷ lệ sử dụng vật liệu xây dựng không nung làm từ tro xỉ nhiệt điện đối với các công trình khác nhau theo nguồn vốn, theo vị trí địa lý và đặc thù công trình, đồng thời có ưu đãi về thuế đối với các dự án đầu tư sản xuất vật liệu xây dựng không nung, dự án chế tạo thiết bị sản xuất vật liệu xây dựng không nung và gạch bê tông làm từ tro xỉ nhiệt điện.

    (3) Bộ Xây dựng: Sớm ban hành hướng dẫn cụ thể về định mức, đơn giá, quy trình thi công và nghiệm thu tại các dự án sử dụng tro xỉ nhiệt điện trong công trình giao thông, xây dựng. Chỉ đạo triển khai mạnh mẽ Chương trình phát triển vật liệu xây không nung theo Quyết định số 2171/QĐ-TTg ngày 23/12/2021; đồng thời thực hiện các chỉ đạo tại Quyết định số 452/QĐ-TTg và Văn bản số 7020/BGTVT-KHCN ngày 19/7/2021 về việc sử dụng tro xỉ nhiệt điện đốt than làm vật liệu đắp nền đường.

    (4) UBND tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa: Quan tâm, hỗ trợ, chỉ đạo các đơn vị trực thuộc tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị của EVN (EVNGENCO3, Công ty Nhiệt điện Vĩnh Tân, NMNĐ Vĩnh Tân 4) đẩy mạnh tiêu thụ tro xỉ phát sinh và xử lý tro xỉ tồn lưu tại bãi dùng chung. Ưu tiên áp dụng các giải pháp sử dụng tro xỉ trong các công trình giao thông, xây dựng và san lấp trên địa bàn tỉnh.

    4. Kết luận

    Với những kết quả đạt được thời gian qua, cùng đề xuất kiến nghị nêu trên, EVN kính mong tiếp tục nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành và chính quyền địa phương. Sự phối hợp đồng bộ của các cấp, các ngành sẽ là cơ sở quan trọng để EVN hoàn thành mục tiêu tiêu thụ tro xỉ tại tất cả các NMNĐ, góp phần bảo vệ môi trường, thúc đẩy phát triển bền vững và xây dựng nền kinh tế tuần hoàn trong ngành năng lượng.

Nguyễn Anh Tuấn, Tổng Giám đốc

Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN)

Ý kiến của bạn