Banner trang chủ
Thứ Tư, ngày 27/11/2024

Hội thảo tham vấn Đề xuất thuế các-bon nhằm giảm nhẹ tác động của Cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon (CBAM) của EU đối với Việt Nam

31/08/2023

    Ngày 30/8/2023, tại Hà Nội đã diễn ra Hội thảo tham vấn Đề xuất thuế các-bon nhằm giảm nhẹ tác động của Cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon (CBAM) của EU đối với Việt Nam. Hội thảo được tổ chức trong khuôn khổ Dự án Hỗ trợ kỹ thuật về Đánh giá tác động CBAM của Liên minh châu Âu (EU) và đề xuất chính sách thuế các-bon cho Việt Nam. Dự án được phối hợp thực hiện với Cục Biến đổi khí hậu thuộc Bộ TN&MT.

    Mục tiêu của Hội thảo là trình bày các kết quả nghiên cứu về khung pháp lý trong nước liên quan đến thuế, phí bảo vệ môi trường và những kinh nghiệm quốc tế về thuế các-bon để đề xuất thiết kế, lộ trình phù hợp cho việc áp dụng thuế các-bon tại Việt Nam nhằm giảm nhẹ tác động của CBAM. Đồng thời trao đổi và thảo luận đưa ra các khuyến nghị và đề xuất đối với Việt Nam để đảm bảo việc xây dựng thuế các-bon góp phần hiệu quả vào nỗ lực chuyển dịch năng lượng, giảm nhẹ biến đổi khí hậu và phát triển các-bon thấp ở Việt Nam.

Bà Mai Kim Liên - Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu phát biểu khai mạc Hội thảo

    Phát biểu khai mạc Hội thảo, Bà Mai Kim Liên - Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu nhấn mạnh: Biến đổi khí hậu đã trở thành xu thế không thể đảo ngược, thách thức lớn nhất đối với nhân loại, đã và đang tác động tới mọi mặt của kinh tế, chính trị, ngoại giao, an ninh toàn cầu. Mỗi quốc gia phải chủ động thích ứng nhằm hạn chế các tác động tiêu cực, đồng thời có trách nhiệm giảm phát thải khí nhà kính theo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) thực hiện Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu kể từ năm 2021 trở đi nhằm giữ cho mức tăng nhiệt độ toàn cầu ở ngưỡng 1.5oC vào cuối thế kỷ này. Đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 là mục tiêu phát triển tất yếu của thế giới, thực hiện chủ yếu thông qua chuyển đổi năng lượng mạnh mẽ, phát triển phát thải thấp. Đây cũng là “luật chơi” mới về thương mại, đầu tư toàn cầu đã được xác lập kể từ sau Hội nghị lần thứ 26 các Bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (Hội nghị COP26). Để đạt được mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, ngoài việc áp dụng công nghệ tiên tiến, ít phát thải, nhiều quốc gia áp dụng công cụ định giá các-bon. Công cụ định giá các-bon phổ biến được áp dụng là thuế các-bon, hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính, cơ chế tín chỉ các-bon (hay cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon).

    Việt Nam luôn coi ứng phó với biến đổi khí hậu là vấn đề có ý nghĩa sống còn và là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị trong việc thực hiện đồng thời các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, sử dụng hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Điều này được thể hiện qua các chính sách đã được ban hành trong thời gian qua như Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Nghị định số 06/2022/NĐ-CP của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ôzôn, Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu  giai đoạn đến năm 2025, Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật của Việt Nam gửi Ban Thư ký của Công ước khung Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) ngày 8/11/2022.

     

Toàn cảnh Hội thảo

    Ngày 10/5/2023, Quy định CBAM của EU đã được thông qua và chính thức có hiệu lực vào ngày 17/5/2023. Theo đó, CBAM sẽ bắt đầu giai đoạn chuyển tiếp kéo dài 3 năm kể từ ngày 1/10/2023. Sau giai đoạn chuyển tiếp, cơ chế này sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2026 và vận hành hoàn toàn vào năm 2034. Hiện tại, Ủy ban châu Âu đã công bố Dự thảo Quy định thực hiện CBAM, trong đó quy định chi tiết các nghĩa vụ báo cáo và những thông tin cần thiết về các mặt hàng CBAM từ các nhà nhập khẩu EU, cũng như phương pháp tạm thời để tính toán lượng phát thải tích hợp trong quá trình sản xuất của các mặt hàng CBAM. Trong giai đoạn chuyển tiếp từ ngày 1/10/2023 đến 31/12/2025, các nhà nhập khẩu sẽ phải thực hiện nghĩa vụ báo cáo lượng phát thải tích hợp trong các mặt hàng nhập khẩu thuộc phạm vi của Quy định vào mỗi quý mà chưa cần phải trả bất kì khoản phí nào. Mặc dù các nhà nhập khẩu được yêu cầu thu thập dữ liệu Quý IV kể từ ngày 1/10/2023, chậm nhất là trước cuối tháng 1/2024 phải nộp báo cáo đầu tiên. Phương pháp báo cáo và tính toán phát thải tích hợp cho các sản phẩm cũng có sự linh hoạt trong giai đoạn này. Theo Dự thảo Quy định Thực hiện CBAM, các doanh nghiệp được chọn một trong ba phương pháp báo cáo: Báo cáo đầy đủ theo phương pháp mới (phương pháp của EU); Báo cáo dựa trên hệ thống quốc gia tương đương của nước thứ ba; Báo cáo dựa trên các giá trị tham chiếu. Kể từ ngày 1/1/2025, chỉ có phương pháp của EU mới được chấp nhận.

    Trên cơ sở đó, Việt Nam đã xác định áp dụng các công cụ định giá các-bon, cụ thể hệ thống thương mại phát thải (hay thị trường các-bon nội địa) nhằm hỗ trợ mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng tiếp tục nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, tác động của các chính sách liên quan quốc tế có tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam như Cơ chế CBAM, từ đó đề xuất các biện pháp, chính sách phù hợp. Song song với lộ trình thiết lập và vận hành thị trường các-bon nội địa, Thủ tướng Chính phủ đã giao các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu đề xuất quy định và lộ trình áp dụng thuế các-bon tại Việt Nam.

    Thuế các-bon là một trong những công cụ định giá các-bon hữu hiệu hỗ trợ việc thực hiện NDC và Thỏa thuận Paris, cũng như thúc đẩy chuyển dịch năng lượng và khử các-bon nền kinh tế. Thuế các-bon đặt ra một mức giá các-bon cố định để định giá lượng phát thải khí nhà kính, tạo động lực kinh tế để đổi mới và chuyển dịch sang năng lượng sạch để giảm phát thải với chi phí thấp nhất. Tại Việt Nam, nhóm Tư vấn của Dự án đã có nghiên cứu phân tích các yếu tố chính của thuế các-bon và ảnh hưởng của thuế các-bon đối với hệ thống trao đổi phát thải và CBAM; Rà soát và phân tích chính sách quốc tế và khung pháp lý liên quan đến thiết kế thuế các-bon ở một số quốc gia tiêu biểu; Rà soát và phân tích chính sách và khung pháp lý liên quan đến thuế các-bon ở Việt Nam và phân tích các lựa chọn để lồng ghép thuế các-bon vào Thuế bảo vệ môi trường và Phí bảo vệ môi trường; Đề xuất các thiết kế phù hợp cho hệ thống thuế các-bon ở Việt Nam; Các đề xuất và lộ trình thực hiện cho Việt Nam.

    Tại Hội thảo, các đại biểu đã được nghe các bài trình bày về Vai trò của các công cụ định giá các-bon đối với các chính sách khí hậu của Việt Nam; Kết quả rà soát, phân tích chính sách về các loại thuế, phí hiện hành về BVMT ở Việt Nam; Kinh nghiệm thế giới về thiết kế thuế các-bon và đề xuất thiết kế thuế các-bon phù hợp với Việt Nam. Sau đó, các đại biểu đã cùng trao đổi và thảo luận về tính khả thi của việc tích hợp thuế các-bon vào Thuế bảo vệ môi trường hoặc Phí bảo vệ môi trường đối với khí thải; phân tích những tác động của thuế các-bon đối với doanh nghiệp Việt Nam; và việc minh bạch trong sử dụng nguồn thu từ thuế các-bon; phân bổ nguồn thu từ thuế cho lợi ích của các bộ phận dân cư, hộ gia đình, các doanh nghiệp bị ảnh hưởng hay nộp vào ngân sách Nhà nước… nhằm hoàn thiện nghiên cứu và báo cáo các cơ quan liên quan kết quả cũng như đề xuất lộ trình thiết kế thuế các-bon tại Việt Nam nhằm triển khai thực hiện trong thời gian tới.

Nguyễn Hằng

Ý kiến của bạn