Banner trang chủ
Thứ Tư, ngày 27/11/2024

Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp về môi trường ở Việt Nam

26/11/2013

     Định nghĩa thống nhất về “Tranh chấp môi trường”

     Trong quá trình nghiên cứu, đã có nhiều nhà Luật học, khoa học môi trường đưa ra những định nghĩa khác nhau về tranh chấp môi trường. Theo định nghĩa của PGS.TS. Vũ Thu Hạnh trong giáo trình Luật Môi trường của Đại học Luật Hà Nội: “Tranh chấp môi trường là những xung đột giữa các tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư về quyền và lợi ích liên quan đến việc phòng ngừa, khắc phục ô nhiễm, suy thoái sự cố môi trường; Về việc khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên và môi trường; Quyền được sống trong môi trường trong lành và quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản do ÔNMT gây nên”. Theo định nghĩa này, chủ thể của tranh chấp môi trường bao gồm các tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, ngoài các chủ thể trên thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng có thể là chủ thể của tranh chấp môi trường. Bởi theo quy định tại Điều 3 của Nghị định số 113/2010/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 3/12/2010 về việc xác định thiệt hại đối với môi trường, một số cơ quan nhà nước có thẩm quyền như UBND cấp xã; UBND cấp huyện; UBND cấp tỉnh và Bộ TN&MT có trách nhiệm yêu cầu các tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường phải bồi thường cho những thiệt hại với môi trường. Theo Điều 14 của Nghị định 113/2010/NĐ-CP, các cơ quan nhà nước trên được quyền lựa chọn một trong ba phương thức để đòi bồi thường thiệt hại đối với môi trường: Thỏa thuận với người gây thiệt hại; Yêu cầu trọng tài giải quyết; Khởi kiện tại tòa án [3]. Trong những trường hợp này, các cơ quan nhà nước trên tham gia tranh chấp như là một bên đương sự, như vậy, chủ thể của tranh chấp môi trường không chỉ là các tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư mà còn bao gồm một số các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

     Trong giáo trình Luật Môi trường của Viện Đại học Mở Hà Nội, TS. Nguyễn Văn Phương đã định nghĩa “Tranh chấp môi trường là những mâu thuẫn, những bất đồng ý kiến của các chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật môi trường khi họ cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm” [31, tr 225]. Theo định nghĩa này, điều kiện tiên quyết để phát sinh tranh chấp môi trường là có một chủ thể tham gia quan hệ pháp luật môi trường cho rằng, quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Tuy nhiên, trên thực tế tranh chấp môi trường có thể phát sinh từ khi quyền và lợi ích của chủ thể đó có nguy cơ bị xâm phạm chứ chưa có sự xâm phạm trên thực tế. Trường hợp này thường liên quan đến các dự án đầu tư. Mặc dù dự án đầu tư chưa được triển khai, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân chưa bị xâm phạm nhưng nếu có căn cứ khoa học hoặc pháp lý cho rằng, dự án đó sẽ gây ra các vấn đề về môi trường khi triển khai trên thực tế thì người dân vẫn được quyền khởi kiện yêu cầu chủ dự án đầu tư không được tiếp tục tiến hành dự án hoặc phải áp dụng các biện pháp BVMT phù hợp.

     Vì vậy, để có một cách hiểu thống nhất về tranh chấp môi trường, Dự thảo Luật BVMT (sửa đổi) nên có sự giải thích thuật ngữ “tranh chấp môi trường tại Điều 3 và có thể giải thích “Tranh chấp môi trường là những mâu thuẫn, bất đồng giữa các chủ thể về quyền, lợi ích hợp pháp và nghĩa vụ liên quan đến môi trường”. Tuy nhiên, tranh chấp môi trường chỉ phát sinh khi những mâu thuẫn, bất đồng đó được thể hiện ra ngoài thông qua những hành vi pháp lý cụ thể như: Gửi văn bản yêu cầu bồi thường thiệt hại, khắc phục sự cố môi trường; gửi đơn khiếu kiện…

     Quy định về người tham gia giải quyết tranh chấp môi trường

     Xuất phát từ đặc trưng của tranh chấp môi trường là số lượng chủ thể thường rất lớn. Thực tế cho thấy, có những tranh chấp, số lượng chủ thể lên đến hàng nghìn người như vụ việc của Vedan. Vậy vấn đề đặt ra là các chủ thể này có thể cử một hoặc một vài người đại diện tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp hay không? Pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa có quy định về điều này dẫn đến các tổ chức, cá nhân bị thiệt hại không thể cùng nộp một đơn khởi kiện mà mỗi tổ chức, cá nhân muốn khởi kiện phải tự mình làm đơn khởi kiện, mỗi đơn khởi kiện là một vụ án. Nếu như Tòa án không linh hoạt vận dụng quy định tại Điều 38 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 về nhập, tách vụ án thì Tòa án sẽ phải giải quyết lần lượt từng vụ án theo đúng trình tự tố tụng luật định.

 

Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, có trách nhiệm yêu cầu các

tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường phải bồi thường thiệt hại

 

     Trước yêu cầu của thực tiễn, thiết nghĩ pháp luật nên cho phép khiếu kiện tập thể thông qua người đại diện trong các tranh chấp môi trường về yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tính mạng, sức khỏe, tài sản do ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường gây ra. Điều này sẽ giúp giảm bớt gánh nặng cho Tòa án trong việc tiến hành các thủ tục tố tụng đồng thời giúp tiết kiệm tài chính và thời gian giải quyết các tranh chấp môi trường. Đồng thời, cơ chế khiếu kiện tập thể cũng giúp cân bằng hơn vị thế của bên bị thiệt hại với bên gây thiệt hại trong tranh chấp môi trường, giúp ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương nơi diễn ra tranh chấp. Khiếu kiện tập thể có thể được thực hiện thông qua một hoặc một nhóm người đại diện do các chủ thể bị thiệt hại ủy quyền thông qua văn bản ủy quyền. Để đảm bảo tính tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự thì đơn khởi kiện tập thể cần có chữ ký đầy đủ của các chủ thể có nhu cầu khởi kiện.

     Tuy nhiên, do đặc trưng của tranh chấp môi trường nên việc xác định được chính xác đương sự trong tranh chấp là rất khó. Để tạo điều kiện cho các chủ thể bị thiệt hại, pháp luật có thể quy định theo hướng “người khiếu kiện tiềm năng” giống như pháp luật của Trung Quốc. Theo đó, khi một hoặc một vài chủ thể nộp đơn khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản do ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường gây ra, Tòa án sẽ ra thông báo cho các chủ thể sinh sống và làm việc trong cùng khu vực, cùng khai thác sử dụng thành tố môi trường đó (những người có nguy cơ gặp phải các thiệt hại tương tự) về đơn khởi kiện và ấn định một thời hạn để người khiếu kiện tiềm năng nộp đơn/ký vào đơn khiếu kiện.

     Quy định về nghĩa vụ chứng minh và chứng cứ trong giải quyết tranh chấp môi trường phù hợp với thông lệ quốc tế

     Quy định về nghĩa vụ chứng minh là rào cản đối với giải quyết tranh chấp môi trường. Vì với cách thức quy định hiện hành thì nghĩa vụ chứng minh sẽ thuộc về phía các chủ thể có yêu cầu. Đối với các tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản và môi trường thì chủ thể yêu cầu bồi thường ngoài việc chứng minh đã có thiệt hại thực tế xảy ra còn phải chứng minh được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường với những thiệt hại về môi trường và mối quan hệ nhân quả giữa những thiệt hại về môi trường đó với những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của họ. Nghĩa vụ chứng minh này gần như nằm ngoài khả năng tài chính và năng lực của các chủ thể bị thiệt hại. Quy định này đã giúp các chủ thể gây thiệt hại ung dung và coi thường pháp luật, không sợ khởi kiện bởi các chủ thể này cho rằng, người bị thiệt hại sẽ rất khó để đưa ra được bằng chứng chứng minh cho yêu cầu của mình. Như vậy, quy định hiện hành phần nào giúp cho bên gây thiệt hại có thêm lợi thế, đẩy xa hơn sự không cân bằng vị thế của các bên tranh chấp.

     Để khắc phục hạn chế này, Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm pháp lý của Trung Quốc là quy định “hoán đổi nghĩa vụ chứng minh” của các đương sự. Theo đó, người bị thiệt hại sẽ không phải chứng minh cho yêu cầu của mình, không phải chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường với những thiệt hại xảy ra. Thay vào đó, người gây thiệt hại sẽ phải có nghĩa vụ chứng minh họ không phải chịu trách nhiệm cho những thiệt hại đó hoặc trách nhiệm của họ có thể được giảm nhẹ trong những hoàn cảnh nhất định theo quy định của pháp luật hoặc phải chứng minh không có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của mình và thiệt hại.

     Nếu áp dụng theo nguyên tắc này, sẽ giảm nhẹ gánh nặng cho các chủ thể bị thiệt hại trong tranh chấp môi trường. Hơn nữa, chủ thể gây thiệt hại có khả năng thực hiện nghĩa vụ chứng minh tốt hơn so với các chủ thể bị thiệt hại. Bởi các chủ thể gây thiệt hại về môi trường thường là các chủ đầu tư, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ có tiềm lực về kinh tế nên có khả năng thực hiện được các nghĩa vụ đó. Bên cạnh đó, chủ thể gây thiệt hại là người thực hiện hành vi nên việc cung cấp chứng cứ để chứng minh mình không phải chịu trách nhiệm hoặc hành vi đó diễn ra trong một hoàn cảnh bất khả kháng hoặc không có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại là dễ dàng hơn. Các chứng cứ để chứng minh có thể là các giấy chứng nhận đạt quy chuẩn, tiêu chuẩn; thiết kế hệ thống xử lý chất thải đúng với nội dung trong báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt hoặc các bằng chứng chứng minh tình huống bất khả kháng dẫn đến các thiệt hại đối với môi trường…

     Cách thức quy định này giúp chủ thể gây thiệt hại ngại ra tòa nên sẽ có thiện chí hơn trong việc giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa giải, giúp giải quyết tranh chấp môi trường đạt hiệu quả cao và không tốn kém.

     Tuy nhiên, việc quy định nghĩa vụ chứng minh hoàn toàn thuộc về chủ thể gây thiệt hại cũng có một số hạn chế như một số trường hợp người dân đòi bồi thường vượt quá so với thiệt hại thực tế. Hơn nữa, chủ thể gây thiệt hại không thể thu thập được các bằng chứng liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, thu nhập hay tình hình sức khỏe của các chủ thể bị thiệt hại nên sẽ không thể chứng minh được mức độ yêu cầu bồi thường của các chủ thể bị thiệt hại là có hợp lý hay không.

     Như vậy, Việt Nam cũng nên quy định theo hướng “hoán đổi nghĩa vụ chứng minh” giống Trung Quốc. Tuy nhiên, chủ thể gây thiệt hại chỉ chứng minh các vấn đề như trách nhiệm đó không thuộc về mình; không có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi… còn chủ thể bị thiệt hại có nghĩa vụ chứng minh mức độ của các thiệt hại và mức bồi thường là tương xứng với những thiệt hại mà mình phải gánh chịu.

 

Th.S Nguyễn Thị Huệ

Giảng viên Khoa Luật, Ðại học Công Đoàn

Chuyên đề Xây dựng Luật BVMT (sửa đổi)

Ý kiến của bạn